Nhà Đường_triều đại phong kiến trung quốc

Nhà Đường, với thủ đô nằm ở Trường An (ngày nay thuộc ngoại ô Tây An) vào thời kỳ đó là thành phố đông dân nhất thế giới, được các nhà sử học coi như là đỉnh cao trong nền văn minh Trung Hoa — ngang bằng, thậm chí còn hơn cả thời nhà Hán. Lãnh thổ của nó, thu được nhờ các cuộc chinh chiến quân sự của các triều đại trước đó, là lớn hơn nhiều so với thời nhà Hán. Nhờ các mối liên hệ được mở rộng với Ấn Độ và Trung Đông, thời đại của đế chế này cũng là thời kỳ nở rộ của các hoạt động sáng tạo trong nhiều lĩnh vực. Phật giáo, có nguồn gốc từ Ấn Độ vào cùng khoảng thời gian chào đời của Khổng Tử, tiếp tục thăng hoa trong thời nhà Đường và đã được hoàng tộc chấp nhận, được Hán hóa rộng khắp và trở thành một bộ phận vĩnh cửu của văn hóa truyền thống Trung Quốc. Tuy nhiên, các vị vua sau này đã lo ngại về quyền lực của các sư sãi Phật giáo và đã tiến hành các biện pháp bạo lực chống lại họ trong thế kỷ 8. Phật giáo tại Trung Quốc kể từ đó không bao giờ trở lại được như thời kỳ hoàng kim trước đó. Công nghệ in ấn bằng bản khắc đã làm cho các tài liệu được phổ biến rộng rãi hơn trong công chúng.



Thời nhà Đường là thời kỳ hoàng kim của văn học và nghệ thuật Trung Quốc (xem thêm Nghệ thuật thời Đường). Hệ thống chính quyền được duy trì nhờ giai cấp trí thức Nho học, được chọn lựa thông qua các hệ thống khoa cử đã được hoàn thiện hơn dưới thời nhà Đường. Các thủ tục mang tính cạnh tranh này đã được thiết lập nhằm lựa chọn những người có tài năng nhất để phục vụ cho chính quyền. Nhưng có lẽ mối quan tâm lớn nhất của các vị vua nhà Đường là sự phụ thuộc của đế chế vào các gia đình quý tộc có quyền lực cũng như các lãnh chúa có thể để lại những hậu quả gây mất ổn định, do vậy họ đã tạo ra một hệ thống quan lại không có lãnh thổ tự trị cũng như không có các cơ sở quyền lực quân sự. Các quan chức này thông thường là có quan hệ họ hàng thân thích với hoàng tộc. Từ thời nhà Đường cho đến tận thời gian gần đây của nhà Thanh năm 1911, các quan chức hoạt động như là tầng lớp trung gian giữa người dân thường và chính quyền nhà nước.

Lý Uyên đã thành lập ra nhà Đường nhưng chỉ cai trị trong vài năm trước khi bị phế truất bởi con trai là Lý Thế Dân, sau này được biết đến như là vua "Đường Thái Tông". Sau đó Thái Tông bắt đầu giải quyết các vấn đề nội bộ. Các vấn đề này là một trong những vấn đề khó chịu nhất của các triều đại trước. Dưới hoàng đế có ba bộ (省, shěng): quân sự, kiểm soát và hội đồng quốc gia. Mỗi bộ có các công việc khác nhau. Cũng trong thời kỳ nhà Đường đã có một người phụ nữ duy nhất cai trị Trung Quốc, đó là Thái hậu Võ Tắc Thiên và bà đã để lại dấu ấn trong lịch sử quốc gia này.

Những thập niên đầu tiên của thế kỷ 8 là đỉnh cao của nhà Đường. Đường Huyền Tông đã đưa Trung Quốc tới thời kỳ hoàng kim của nó và ảnh hưởng của nhà Đường đã đến tận Nhật Bản và Triều Tiên về phía đông, Việt Nam về phía nam cũng như khu vực tây và trung Á về phía tây. Điểm xuống dốc bắt đầu vào năm 755 trong những năm cuối cùng của thời gian trị vì của Huyền Tông, khi cuộc nổi loạn của An Lộc Sơn đã tiêu hủy nhà Đường cũng như tất cả sự thịnh vượng mà phải mất nhiều năm mới có thể xây dựng lại. Nó đã làm suy yếu quốc gia này và trong 150 năm còn lại nhà Đường không bao giờ lấy lại được những ngày huy hoàng của thế kỷ 7 và 8.

Gần cuối giai đoạn nhà Đường, các lãnh chúa quân sự khu vực (Tiết độ sứ) đã ngày càng tăng thêm quyền lực và bắt đầu hoạt động với tư cách giống như các chế độ độc lập với các quyền riêng của họ. Nhà Đường kết thúc khi một trong các lãnh chúa quân sự, Chu Ôn, phế truất vị vua cuối cùng và cướp lấy ngai vàng, nó mở đầu cho thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc; thời kỳ này bao gồm 5 triều đại là: nhà Hậu Lương (907-923), nhà Hậu Đường (923-936), Hậu Tấn (936-946), nhà Hậu Hán (947-950), nhà Hậu Chu (951-960), và 10 vương quốc là: Ngô (902-937), Tiền Thục (907-925), Ngô Việt (907-978), Sở (907-951), Nam Hán (907-971), Mân (909-945), Nam Bình (924-960), Hậu Thục (934-965), Nam Đường (937-975), Bắc Hán (951-979).

Sưu Tầm

Nhà Tần-Triều đại phong kiến đầu tiên ở Trung Quốc

Năm 221 trước công nguyên, trải qua hơn 2 nghìn năm xã hội nô lệ, nhà Tần, triều đại phong kiến tấp quyền trung ương thống nhất đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc đã ra đời. Sự ra đời của nhà Tần có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong lịch sử Trung Quốc.

Từ năm 255 đến 222 trước công nguyên là thời kỳ Chiến quốc trong lịch sử Trung Quốc, cũng là thời kỳ cuối của xã hội nô lệ ở Trung Quốc. Lúc đó có rất nhiều nước nhỏ độc lập, giữa các nước này luôn xảy ra thôn tính lẫn nhau và cuối cùng chỉ còn lại 7 nước tương đối lớn gọi là “thất hùng”, tức Tề, Sở, Hàn, Yên, Ngụy, Triệu, Tần. Trong 7 nước này thì nước Tân nằm ở phía tây bắc tiến hành cải cách quân sự và nông nghiệp sớm nhất, quốc lực được tăng cường nhanh chóng. Năm 247 trước công nguyên, Doanh Chính mới 13 tuổi kế vi vua Tần, năm 22 tuổi chính thức nhiệp chính và bắt đầu thực thi chiến lược hùng vĩ thôn tính 6 nước kia thống nhất thiên hạ. Ông thu hút nhân tài bốn phương, miễn ai có tài đều được trọng dụng. Chẳng hạn như ông từng trọng dụng Trịnh Quốc Hưng là gián điệp của nước Hàn để xây dựng kênh Trịnh Quốc, làm cho hơn 40 nghìn ha đồng ruộng chua mặn của nước Tần trở thành đồng ruộng phì nhiêu không bao giờ mất mùa, tạo điều kiện vật chất đầy đủ cho nước Tần thống nhất Trung Quốc. Năm 230 đến 221 trước công nguyên, trong vòng không đầy 10 năm Doanh Chính lần lượt tiêu diệt được 6 nước Tề, Sở, Hàn, Yên, Ngụy và Triệu, hoàn thành đại nghiệp thống nhất. Lịch sử Trung Quốc kết thúc cục diện cát cứ, xuất hiện triều đại Nhà Tần tập quyền trung ương thống nhất và chuyên chế, Doanh Chính trở thành hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, nên mới gọi là “Tần Thủy Hoàng”.

Nước Tần thống nhất Trung Quốc có đóng góp và ý nghĩa cực kỳ to lớn trong lịch sử Trung Quốc. Trước hết, về chính trị, Tần Thủy Hoàng đã phế bỏ chế độ phân phong, thi hành chế độ Quận Huyện, chia cả nước thành 36 quận, dưới quận là Huyện; Quan lại của trung ương và địa phương đều do nhà vua đích thân tuyển chọn, bổ nhiệm và miễn nhiệm, không thi hành chế độ cha truyền con nối. Chế độ Quận Huyện do nhà Tần sáng lập đã trở thành định chế trong lịch sử phong kiến Trung Quốc hơn 2 nghìn năm, tên gọi của rất nhiều Huyện ở Trung Quốc hiện nay đều là do nhà Tần đặt cho cách đây hơn 2 nghìn năm. Một đóng góp quan trọng nữa của Nhà Tần thống nhất Trung Quốc là việc thống nhất chữ viết. Trước nhà Tần các nước đều có chữ viết riêng của mình, mặc dù các loại văn tự này có cùng nguồn gốc và cách viết gần giống nhau, nhưng vẫn gây trở ngại cho việc truyền bá và giao lưu văn hóa. Sau khi thống nhất, Nhà Tần qui định chữ Hán Triện nhỏ của nước Tần là văn tự thông dụng trong toàn quốc, từ đó về sau diễn biến của chữ Hán Trung Quốc bắt đầu có cơ sở tra cứu, điều này có ý nghĩa không thể lường hết được đối với sự hình thành lịch sử và kế thừa văn hoá của Trung Quốc.

Ngoài ra, nhà Tần còn thống nhất dụng cụ đo lường trong cả nước. Cùng như văn tự, trước ngày thống nhất giữa các nước có sự khác nhau về thước đo, dung tích, trọng lượng, trở ngại nghiêm trọng cho sự phát triển kinh tế. Bên cạnh đó nhà Tần còn thống nhất đồng tiền và pháp luật, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế quốc gia, cũng tăng cường mạnh mẽ địa vị của chính quyền trung ương.

Để tăng cường ách thống trị chuyên chế về tư tưởng, năm 213 trước công nguyên Tần Thủy Hoàng ra lệnh thiêu hủy toàn bộ các sách sử của nước khác, kinh điển Nho giáo ngoài “Tần sử” mà các quan lại cất giữ, thậm chí giệt chết những người dám giấu giếm cất giữ những sách này. Bên cạnh đó, để phòng ngừa các chính quyền dân tộc thiểu số ở phương bắc xâm lấn, Tần Thủy Hoàng đã ra lệnh tu sửa lại trường thành của các nước Tân, Triệu, Yên...nối lại với nhau thành Vạn lý Trường Thành chạy từ sa mạc phía tây đến vùng ven biển phía đông. Tần Thủy Hoàng còn ráo riết xây dựng, huy động hằng 70 vạn dân công tiêu tốn tiền bạc để xây dựng khu lăng tẩm Lệ Sơn, đây chính là Tần Lăng và Binh Mã Dõng-di sản thế giới ngày nay.

Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc đã kết húc cục diện cát cứ phân chia kéo dài trong lịch sử Trung Quốc, xây dựng lên một đế chế phong kiến hùng mạnh đa dân tộc với dân tộc Hán làm chủ thể, lịch sử Trung Quốc từ đó đã sang tang mới.

Khái lược về Hình tượng Rồng các triều đại Nguyên – Minh – Thanh

“Rồng vốn là hình con Đằng của người Hạ, vốn là hình tượng đính ước, khi đi vào cuộc sống rồi trở thành vật tốt lành của giai cấp thống trị, đưa vào một nơi tối cao, tối quí.” Và trong Quảng Nhã Thích hỗ giải thích: “Long, quán dã – Rồng, bao trùm tất thảy” và Rồng đã vĩnh viễn trở thành hình tượng của hoàng đế hay hoàng quyền…

1. Rồng và Vương vị:

Rồng, hay đúng hơn là Hình tượng Rồng từ khi xuất hiện dường như đã được gắn liền với sự tôn quí. Một cuốn cổ thư là Dịch kinh viết: “Phi long tại thiên”. Ý nghĩa của lời này cũng có nhiều cách hiểu, nhưng hãy xem một lời giải thích gần gũi nhất: Sớ giải thích: “Phi long tại thiên, do thánh nhân chi tại Vương vị – Rồng bay lên trời, bởi bậc Thánh vương đang tại vị”. Sự biến chuyển ý nghĩa từ lấy sự biểu hiện (Có vua tốt thì có Rồng hiện hình) sang nghĩa hình tượng của Vua là Rồng (để xứng với vai vị Thiên tử) đã trở thành lề lối cho nhiều đời thống trị phong kiến về sau. Tuy vậy, những nguyên nghĩa của ý nghĩa này vẫn được thể hiện trong cách gọi một số niên hiệu của các bậc đế vương. Gần đây nhất, năm 1802, khi Vua Gia Long lên ngôi, ngoài việc Ngài lấy chữ Gia long đặt cho niên hiệu của thời đại mình cai trị mà còn có cách gọi khác là “Long phi”. Tất nhiên, cũng có thể thấy cách sử dụng này được dùng riêng trong hai đời đầu của một triều đại (Thái tổ, Thái tông) nhưng chủ yếu là sự tôn xưng của những thế hệ sau và cũng là niềm khao khát hy vọng cho mỗi triều đại – một vương triều Thánh trị. Nhà văn hóa lớn của Trung Quốc là Văn Nhất Đa cũng đã từng khảo chứng: “Rồng vốn là đồ đằng (biểu tượng) của người Hạ, trở thành hình tượng của sự đính ước, sau đi vào cuộc sống để trở thành vật may mắn tốt lành của giai cấp thống trị, được tôn lên nơi tối cao, tối quí.” Và trong Quảng Nhã Thích hỗ giải thích: “Long, quán dã – Rồng, bao trùm tất thảy” và Rồng đã vĩnh viễn trở thành hình tượng của hoàng đế hoặc hoàng quyền cho tới tận ngày nay.

2. Sự uy nghiêm của Rồng:

Lịch sử dài 5000 năm của dân tộc Trung Hoa luôn sùng thượng Rồng, rắn và luôn lồng cho chúng những sức mạnh siêu nhiên, với sự uy nghiêm thần bí bởi hình tượng của chúng là sự thể hiện của các hoàng đế. Nguyên sử qui định: “Nghiêm cấm mặc đồ có thêu hình Kỳ lân, loan phượng, thỏ trắng, linh chi, rồng hai sừng năm móng)” và đời Minh, Thanh thì vẫn như vậy. Hình tượng Rồng không chỉ được đại diện cho khuôn mặt của đức vua (Long nhan), mắt (Long nhãn), thân thể của đức vua (Long thể), … hay ân đức của ông (Long ân) khi ban phát cho triều thần, và còn được áp dụng vào cả những thứ mà đức vua thường sử dụng như áo (Long bào), giường (Long sàng),… đã được nhiều triều đại phong kiến phương Đông ứng dụng. Trong Minh sử, thiên Thực hóa chép: “Thời Minh Tuyên Đức, lấy hoa văn hình rồng làm đồ sứ tế khí”. Trong Văn minh hội điển cũng chép: “Năm Tuyên Đức thứ 8 (1433) cho tạo đồ sứ có trang trí hình long phượng 443.500 chiếc”… và cho tới Thời Chính Thống, triều đình cũng đã ban những sắc lệnh tạo tác trên đồ ăn bằng sứ có hình Cửu long, Cửu phượng, và lại còn tạo ra những bình hoa có rồng xanh nền trắng.

Như thế, hình tượng Rồng đã được tuyệt đối hóa cao độ. Hình tượng Rồng đã được vị trí tối cao tối quí trong quan niệm trị quốc của người phương Đông và đối với nghề gốm sứ, hình tượng Rồng đã được sử dụng một cách cao độ với những giá trị siêu hình, và tất nhiên, mặt trái của nó là sự trả giá bằng cái chết của những ai vi phạm vào điều cấm kị như sự việc năm 1599 (Minh Vạn Lịch thứ 27), chỉ vì sơ xảy khi sử dụng chiếc lọ sứ thanh hoa vẽ Rồng của anh thợ lò Đồng Tân đã bị viên hoạn quan Phan Trương được cử đến quản lý lò ngự diêu ở Cảnh Đức Trấn, thúc bách khiến anh thợ chỉ còn biết tìm cái chết trong lò nung ngàn độ.

3. Khái lược về Hình tượng Rồng các triều đại Nguyên – Minh – Thanh:

Cho dù là xuất thân là một con vật huyền thoại (hoặc được khái quát hóa của loài cá sấu, hay kì nhông nào đó) thì Rồng vẫn phải có một cái vỏ vật chất, và theo sự kéo dài mãi của lịch sử, sự biến dạng của Hình tượng Rồng đã khiến không mấy ai còn biết tới hình dạng ban đầu của chúng. Qua việc tổng hợp các tư liệu của chúng tôi về các hình trạng được các họa sĩ cổ đại thể hiện, chúng ta có thể thấy, sự biến dạng của Rồng qua từng thời đại là có sự khác nhau khá rõ rệt. Mõm rồng ngày càng ngắn lại tỉ lệ với thân ngày càng được dài ra (do ý thức hệ của các họa công từng thời). Sơ khởi, có lẽ Đồ hoạ kiến văn chí là một tư liệu cổ nhất có những ghi chép về hình trạng của Rồng: “Sừng như sừng hươu, đầu giống đầu lạc đà, mắt như mắt quỉ, hàm rắn, bụng trăn, vảy cá, móng ưng, chưởng tay như hổ, tai như trâu”… và hình tượng này luôn là những căn cứ cơ bản nhất để các họa công các thời kì thể hiện.

Hình tượng Rồng trên đồ gốm sứ có thể thấy là rất lâu, nhưng nếu chỉ tính là đồ chuyên biệt cho một triều đại thì rõ nhất bắt đầu từ thời Nguyên. Đặc điểm nhận dạng của Rồng đời Nguyên là chiếc đầu nhỏ mà tròn (nhỏ hơn đầu rồng đời Tống), số lượng của bờm rồng đời Nguyên thường là nhiều, nhưng cũng có thể ít. Do nanh tương đối dài mà hàm lại nhỏ khiến miệng rồng như được chia thành hình dài hoặc hình tròn, mép trên cong, nếu miệng há thì lưỡi vươn dài, mảnh, thân dài, móng dài mà cong móc vào trong, thường là ba, nhưng cũng có khi có bốn hoặc năm móng. Nếu năm móng thì tương đối nhỏ, đuôi dài nhưng nhọn, sắc màu đậm, đơn giản, ít khi có vẽ cùng hình ảnh nước, hình vẽ rất sinh động, bút pháp mạnh mẽ, khí thế rất uy dũng.

Thời Minh, sự biến chuyển hình trạng của Rồng có lẽ rõ nhất là từ thời Vĩnh Lạc, Tuyên Đức (1403-1434). Đầu rồng to hơn thời Nguyên, sắc màu đều đặn, mõm dài, mũi như mũi lợn nên còn gọi là Chư Bà long, răng nanh không những rất dài mà còn được phân hóa với nanh dưới và còn cong lên. Chiếc lưỡi dài vươn ra từ cái mồm khá rộng, ở thời kì đầu, lưỡi thường dài và nhọn, ở thời kỳ sau thì lưỡi đã nhỏ mà cong lại gần giống với Rồng thời Thanh, hai râu gập cong đối xứng hai bên mũi, ở hàm thường có hai hoặc ba chòm râu, bờm như những bó lông kết lại, ở thời kỳ đầu bờm ít, sau thì nhiều hơn, cong mà bay lên. Vẻ mặt Rồng được biểu lộ sự giận dữ đầy uy lực. Mắt rồng lúc này như mắt cá, trên đồ án thường được vẽ về một phía. Bộ phận móng như móng của chim ưng, thường là ba, bốn móng. Nếu năm móng thì đã là đồ chuyên biệt của quan diêu, thân đã được cách điệu, có vẻ to khoẻ hơn rồng thời Nguyên. Ở dân diêu, rồng phải vẽ rất giản dị, đuôi rồng thường to mà ngắn. Những họa tiết bổ trợ thường là sóng biển, lửa, mây hay hoa dây.

Ở thời Thanh sơ, sự chuyển biến của Hình dạng Rồng trở nên rõ rệt. Do nhan liệu và chất liệu đã có sự tinh chế và tính toán kĩ nên các đồ hoạ rất tinh mỹ, bút pháp nhuần nhuyễn, hình thức rất đa dạng, màu sắc tươi tắn, lớp lang rõ rệt. Do đại diện của một bộ tộc ngoài Trung Nguyên khiến quan niệm về Rồng đã được thay đổi. Sự biến chuyển ý nghĩa của hình tượng từ biểu tượng cho Hoàng đế đã nhập hẳn vào hình tượng của Hoàng đế. Tính nhân hóa của Rồng được nhấn rất mạnh. Đầu rồng rất to, đầu vuông trán rộng, mồm nhọn mà ngắn. Lưỡi tuỳ theo hướng của môi dưới mà cuộn lên, hàm trên hàm dưới đều có râu. Râu rồng thời Khang Hy thường như hình răng cưa, về sau thì phân ra hai chòm râu như râu dê, bờm thì tung ra sau hướng lên trên, hai râu dài cuộn xoắn hai bên mũi. Thân rồng thường theo nguyên tắc Tam ba cửu chiết (Lượn ba lần, cuộn chín khúc), móng rồng tựa như móng gà, năm ngón xoè như cái chong chóng, không còn cảm thấy sự dữ tợn của thời Nguyên và Minh. Cho đến cuối Thanh thì hình Rồng đã biến dạng, nanh dài, thân rồng vặn khúc tùy hứng, vảy không còn lớp lang mà tựa như mắt lưới.

Tên các triều đại trung hoa

1 Xia Dynasty : Nhà Hạ
2 Shang Dynasty : Nhà Thương
3 Zhou Dynasty : Nhà Chu (Châu)
4 Qin Dynasty : Nhà Tần
5 Han Dynasty : Nhà Hán ( Phân Tây-Đông Hán)
6 Three Kingdoms Period : Tam Quốc ( Nguỵ Thục Ngô)
7 Jin Dynasty : Nhà Tấn
8 Sixteen Kingdoms Period : Thập Lục Quốc
9 Northern and Southern Dynasties : Nam Bắc Triều
10 Sui Dynasty : Nhà Tuỳ
11 Tang Dynasty : Nhà Đường
12 Five Dynasties and Ten Kingdoms : Ngũ đại Thập Quốc
13 Liao Dynasty : Nhà Liêu
14 Song Dynasty : Nhà Tống
15 Western Xia : Nhà Tây Hạ
16 Jin Dynasty : Nhà Tấn
17 Yuan Dynasty : Nhà Nguyên
18 Ming dynasty : Nhà Minh
18.1 Shun Dynasty : Thời Thuấn
18.2 Southern Ming Dynasty : Có triều Nam Minh không???
19 Qing dynasty : Nhà Thanh

5 vị vua truyền thuyết trong lịch sử Trung Quốc

rong truyền thuyết Trung Quốc xưa có 5 ông vua lý tưởng. Đó là Viêm Đế, Hoàng Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn và Hạ Vũ. Có thuyết nói Viêm Đế tức Thần Nông, người phát minh ra cái cày và dạy dân làm ruộng. Hoàng Đế họ Cơ, hiệu là Hiên Viên, phát minh ra binh khí bằng đá cứng, thuyền xe, cung tên và nhuộm 5 màu, chữ viết, lịch can chi, nhạc khí. Vợ ông là Luy Tổ phát minh ra nuôi tằm. Về sau Hoàng Đế được coi là thủy tổ của tộc Hoa. Viêm Đế và Hoàng Đế là thủ lĩnh của ác bộ lạc cư trú ở Hoàng Hà, miền đất trù phú được coi là nơi khai sinh nền văn minh Trung Hoa.

Hoàng Đế có họ là Công Tôn, cũng có thuyết nói ông họ Cơ, tên là Hiên Viên. Chuyên Húc là cháu của Hoàng Đế, dựng nước ở vùng Cao Dương (tỉnh Hồ Bắc ngày nay). Đế Khốc tên là Tuấn, phò tá Chuyên Húc từ năm 15 tuổi, 30 tuổi nối ngôi, ở ngôi 70 năm, tới năm 105 tuổi mới qua đời. Con trai ông là Chí nối ngôi nhưng hoang dâm vô độ, nên chín năm sau bị phế truất. Nghiêu lên nối ngôi. Vua Nghiêu họ Y Kỳ, tên là Phóng Huân, hiệu Đào Đường Thị, gọi tắt là Đường Nghiêu. Sách cổ nói ông giỏi trị thiên hạ, đặt ra lịch một năm có 366 ngày, chia thành 4 mùa. Vua Nghiêu chết năm 86 tuổi, ông nhường ngôi cho con rể là Nghiêu Thuấn. Thuấn cũng có nhiều công trong việc phát triển kinh tế, săn bắt, nông nghiệp.

Vua Nghiêu

Nghiêu (tiếng Trung Quốc:, giản thể:) (2337 - 2258 TCN) là một vị vua huyền thoại ở Trung Quốc, một trong Tam Hoàng Ngũ Đế. cũng được gọi là Giao Đường Thị, ông sinh tại Nhân Phóng Huân hay Nhân Kỳ là con trai thứ hai của Khốc Đế và Khánh Đô. Ông cũng được gọi là Đường Nghiêu .

Thường được ca tụng là một vị vua tài giỏi và đạo đức, lòng nhân từ và sự cần cù của vua Nghiêu được coi là kiểu mẫu cho mọi vị vua và hoàng đế Trung Hoa khác. Buổi ban đầu lịch sử Trung Hoa, ba gương mặt, Nghiêu, Thuấn và Vũ rất thường được đề cập tới, và những nhà sử học thời sau tin rằng có thể họ đại diện cho những lãnh tụ của các bộ tộc liên minh đã thành lập nên một hệ thống trật tự chính phủ thống nhất trong một giai đoạn chuyển tiếp sang một xã hội phong kiến gia trưởng.

Theo truyền thuyết, Nghiêu lên ngôi vua khi mới 20 tuổi, chết khi 119 và ông truyền ngôi cho vua Thuấn, người được ông gả cho hai cô con gái từ trước. Trong nhiều cống hiến của mình, vua Nghiêu được cho là đã phát minh ra cờ vây.

Truyền thuyết "Sào Phủ Hứa Do" là một chuyện đời vua Nghiêu. Nhân vật Bành Tổ cũng được cho là một nhân vật của thời vua Nghiêu.

Trong văn học Việt Nam, thời Nghiêu, Thuấn được dùng làm điển cố miêu tả thời thái bình, (ngoài) đường không lượm của rơi, (trong) nhà khỏi lo đóng cửa.

Điển cố này ảnh hưởng trong văn học cũng như các khía cạnh khác của đời sống người Việt Nam, kể cả tôn giáo. Bài "Cư Trần Lạc Đạo Phú" của vua Trần Nhân Tông (tức sơ tổ Phật Giáo Trúc Lâm) có câu:

Đức Bụt từ bi, mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận;
Ơn Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đã tha.
Các vua Việt Nam cũng dùng Nghiêu Thuấn là mẫu mực cho việc cai trị. Bên trong điện Thái Hòa (thành nội Huế), ngay trên ngai vua có bài thơ:

Văn hiến ngàn năm dựng
Núi sông vạn dặm xa
Hồng Bàng thưở lập quốc
Nghiêu Thuấn vững sơn hà.


Vua Thuấn

Thuấn là một vị vua huyền thoại thời Trung Quốc cổ đại, nằm trong Tam Hoàng Ngũ Đế. Tên khi sinh Diêu Trọng Hoá . Ông cũng được gọi là Hữu Ngu Thị . Ông được Vua Nghiêu đưa lên ngôi khi 53 tuổi và chết khi 100 tuổi, sau khi trao lại ngôi báu cho Hạ Vũ. Ông đặt thủ đô vương quốc tại Bồ Phản , Sơn Tây hiện nay).

Ông cũng được gọi là Đại Thuấn hay Ngu Thuấn .

Vua Thuấn trong văn học Việt Nam
Trong văn học Việt Nam, thời Nghiêu, Thuấn được dùng làm điển cố miêu tả thời thái bình, (ngoài) đường không lượm của rơi, (trong) nhà khỏi lo đóng cửa.

Trong vở kịch thơ "Kiều Loan", Hoàng Cầm dùng hai chữ "Nghiêu Thuấn" để chỉ cách cai trị nhân từ và công bằng. Khi quan Thị lang muốn trừng trị một người dân vì có nói lời chỉ trích triều đình, viên quan Tham tri can:

Xin đại nhân chớ vội vàng lên án
Cửa miệng dân gian không thiếu những điều
Ca tụng Tây Sơn, oán trách đương triều
Dân oán hận phải tìm ra gốc ngọn
Đây là Kiệt Trụ hay đây là Nghiêu Thuấn?
Chúa thượng nhân từ sao oán hận không nguôi?
Điển cố này cũng ảnh hưởng khía cạnh khác của đời sống người Việt Nam, kể cả tôn giáo. Bài Kệ U Minh Chung của đạo Cao Đài có câu:

Nam mẫu Đông giao cu triêm Nghiêu Thuấn chi nhựt.
Dịch nghĩa: Đất đai trong nước đều thấm nhuần thời thái bình an lạc.

Một điển cố khác liên quan đến vua Thuấn là sông Tương.

Theo truyền thuyết, vua Thuấn đi tuần thú đất Thương Ngô ở miền sông Tương không may bị bịnh chết. Hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh (con vua Nghiêu) đi tìm vua đến bên sông Tương, ngồi bên bờ sông khóc lóc thảm thiết rồi trầm mình tự tử. Do đó, giọt Tương hay mạch Tương thành điển cố chỉ giọt nước mắt, nhất là nếu khóc vì tình.

Trong truyện Kiều có câu:

Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương
(Kiều khóc)

Điển cố này cũng dùng cho phái nam, như trong câu sau, cũng trích truyện Kiều:

Giọt châu lã chã khôn cầm
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương!
(Thúc Sinh khóc)

Từ biểu tượng "khóc vì tình", điển này có khi nới rộng ra để nói về việc buồn (dù có thể không khóc) vì tình, như câu sau trong Bích câu kỳ ngộ:

Ỏi tai những tiếng đoạn trường
Lửa tình dễ nguội sóng Tương khôn hàn
(Tú Uyên tương tư)

Một vị vua trong Ngũ Đế thời thượng cổ họ Diêu tên là Thuấn, một trang hiếu tử. Sau được vua Nghiêu, hiệu là Đào Đường gả hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh, rồi lại truyền ngôi báu cho. Vua Thuấn lên ngôi đặt niên hiệu là Đường Ngu.

Nguyên cha của Thuấn là người hung bạo, không biện biệt được người hay kẻ dỡ, người đương thời đặt tên là Cổ Tẩu (người mù mắt). Mẹ của Thuấn mất sớm, Cổ Tẫu tục huyền với người đàn bà sau này sinh ra Tượng. Vì có lời gièm pha của người kế mẫu và đứa em ngỗ nghịch cùng cha khác mẹ, Cỗ Tẫu không ưa Thuấn và định bụng giết đi. Biết thế, nhưng Thuấn vẫn trọn gìn chữ hiếu đối với cha và người dì ghẻ ác nghiệt, hòa thuận với đứa em độc ác, không một lời than oán. Khi cha bắt đi cày ở đất Lịch Sơn cốt tìm cách trừ đi, vì nơi đây có tiếng là nhiều thú dữ hay ăn thịt người. Nhưng tấm lòng hiếu thảo và hòa mục của Thuấn động đến lòng trời, cả đàn voi ra giúp Thuấn cày đất và muông chim vô số đáp xuống nhặt cỏ hộ. Thấy không hại được Thuấn Cổ Tẫu và người dì ghẻsai Thuấn đánh cá ở Hồ Lôi Trạch, nơi có nhiều sóng to gió lớn, nhưng khi Thuấn đến thì sóng lặng gió yên.

Đến khi được vua Đường Nghiêu truyền ngôi, suốt 18 năm trị vì, Đế Thuấn chỉ ngồi gảy đàn hát khúc Nam Phong mà trị bình thiên hạ, nhà nhà đều lạc nghiệp âu ca.

Nguyên Bản:
Đội đội canh điền tượng,
Phân Phân vân thảo cầm,
Phụ Nghiêu đăng báo vị,
Hiếu cảm động thiên tâm



Có nghĩa là
Hàng đàn voi về cày ruộng,
Hàng bầy chim đến nhặt cỏ,
Giúp vua Nghiêu lên ngôi báu,
Hiếu thảo động lòng trời.


Diễn Quốc Âm:
Đức Đại Thánh họ Ngu, vua Thuấn,
Buổi tiềm long gặp vận hàn vi,
Tuổi xanh khuất bóng từ vi
Cha là Cổ Tẫu người thì ương ương,
Mẹ ghẻ tính càng khe khắt,
Em Tượng thêm rất mực điêu ngoa,
Một mình thuận cả vừa ba,
Trên chiều cha mẹ dưới hòa cùng em.
Trăm cay đắng một niềm ngon ngọt,
Dẫu tử sinh không chút biến dời,
Xót tình khóc tối kêu mai
Xui lòng ghen chét hóa vui dần dần,
Trời cao thẳm mấy lần cũng đến
Vật vô tri cũng mến lọ người.
Mấy phen non lịch pha phôi,
Cỏ chim vì nhặt, ruộng voi vì cày.
Tiếng hiếu hữu xa bay bệ thánh,
Mệnh trương dung trao chánh nhường ngôi
Cầm thi xiêm áo thảnh thơi,
Một nhà đầm ấm, muôn đời ngợi khen.


Nhà Hạ

Nhà Hạ (Hán tự: 夏, bính âm: xia) là một triều đại Trung Quốc. Sử học Trung Quốc coi đây là triều đại đầu tiên của Trung Quốc, sau thời Tam hoàng Ngũ đế và trước thời nhà Thương, kéo dài từ năm -2205 đến -1767, bắt đầu từ vua Hạ Vũ và kết thúc ở vua Kiệt. Tuy nhiên, người ta có quyền đặt nghi vấn đối với triều đại này vì trên thực tế, những văn thư đầu tiên của Trung Quốc được viết ra sau triều đại này cả hơn một nghìn năm.

Những cuộc khai quật gần đây tại các di chỉ thời đại đồ đồng sớm tại Nhị Lí Đầu tại tỉnh Hà Nam, cũng khó tách biệt truyền thuyết ra khỏi thực tế đối với sự tồn tại của triều đại này. Hầu hết các nhà khảo cổ học Trung Quốc cho rằng văn hoá Nhị Lí Đầu là nơi phát tích của nhà Hạ, tuy vậy các nhà khảo cổ học phương Tây vẫn không đồng ý về mối liên hệ giữa nhà Hạ và văn hoá Nhị Lí Đầu.

Truyền thuyết nói rằng vua Vũ là người hiền, có công đào vét chín con sông trị thủy cho Trung Quốc trong tám năm. Trong thời gian đào vét, ông nhiều lần đi ngang qua nhà mình mà không vào, ông được vua Thuấn truyền ngôi. Khi chết, Vũ truyền ngôi cho một bầy tôi mà ông cho là hiền, tức ông Ích, nhưng Ích không nhận, nhường ngôi lại cho con ông Vũ là Khải, mà đi ở ẩn tại chân núi Kỳ Sơn. Sau 18 đời, vua cuối cùng nhà Hạ là Kiệt tàn bạo, hoang dâm, mê nàng Muội Hỷ, bị dân chúng ghét, vua Thương Thang là chư hầu dấy quân diệt nhà Hạ lập ra nhà Thương.

17 đời vua nhà Hạ là: Vũ, Khải, Thái Khang, Trọng Khang, Tương, Thiếu Khang, Trữ, Hoè, Mang, Tiết, Bất Giáng, Quynh, Cần, Khổng Giáp, Cao, Phát, Kiệt.

Vua Vũ nhà Hạ Trung Quốc, trong tiếng Trung Quốc: 禹, (2070 TCN-2061 TCN), tên khi sinh Tỉ Văn Mệnh, tiếng Trung Quốc: 姒文命, thường được gọi là Đại Vũ (大禹).

Theo truyền thuyết, vua Vũ là vị vua đầu tiên của nhà Hạ trong lịch sử Trung Quốc, được coi là người sáng lập ra triều đại này. Thỉnh thoảng cũng được coi là một trong Tam Hoàng Ngũ Đế, ông được nhớ tới nhiều nhất với tư cách là người đã có công phát triển kỹ thuật trị thuỷ chinh phục các sông ngòi Trung Quốc.

Cha Vũ, Cổn (鯀), được Vua Nghiêu (堯) sai đi trị thuỷ nhưng không thành công nên bị Vua Thuấn (舜), người kế tục Vua Nghiêu, giết. Tiếp tục công việc của cha, Vũ đã đào chín sông mới, bỏ ra mười ba năm và khoảng 20.000 nhân công để hoàn thành nhiệm vụ.

Vũ cũng là người nổi tiếng về tính kiên trì và kiên quyết. Ông được kính trọng như một vị vua hoàn hảo. Các câu chuyện về công việc trị thuỷ của ông cho rằng trong thời gian làm việc, ông đã ba lần qua nhà mà không vào; có nghĩa là ông coi vấn đề trị thuỷ quan trọng hơn việc gia đình rất nhiều.

Vua Thuấn rất ấn tượng trước những nỗ lực của Vũ và đã đưa ông lên ngôi chứ không phải con trai mình.

Theo những văn bản lịch sử, vua Vũ chết tại Núi Kuaiji (phía nam Thiệu Hưng hiện nay) trong khi đang đi săn bắn ở biên giới phía nam đế chế, và ông đã được chôn cất tại đó. Một lăng mộ đã được xây dựng để tưởng nhớ ông. Một số hoàng đế thời đế quốc sau này đã đi tới đó thực hiện các nghi lễ tưởng niệm ông, đặc biệt có cả Tần Thuỷ Hoàng. Lăng Đại Vũ , cũng đã được xây dựng trên di tích nơi các buổi lễ đó được thực hiện.

Trước thời vua Vũ, danh hiệu hoàng đế được kế tiếp cho người nào được cộng đồng coi là có đạo đức cao nhất, chứ không phải là truyền tử. Tuy nhiên, con trai vua Vũ, Khải , đã chứng minh được khả năng của mình và trở thành người thừa kế ngôi báu của cha, đánh dấu sự khởi đầu của một triều đại mới là nhà Hạ , triều đại đầu tiên của phong kiến Trung Quốc. Nó đã trở thành một hình mẫu cai trị dựa trên thừa kế ở Trung Quốc

Xi vưu

Tại Trung Quốc, vương quốc Hmông đầu tiên được ghi chép có tên gọi là Jiuli, và những người cai trị nó có tước hiệu là Chiyou (Xi Vưu) (trong tiếng Hoa) hay Txiv Yawg (trong tiếng H'Mông). "Xi Vưu" có nghĩa là "ông-cha", và là tước hiệu tương đương nhưng không ít quyền lực hơn hoàng đế. Các tổ tiên "Xi Vưu" được coi là dân tộc Liangzhu. Jiuli được cho là có quyền lực đối với 9 bộ tộc và 81 thị tộc.

Theo truyền thuyết Trung Hoa, bộ tộc của Xi Vưu (tiếng Hoa:, pinyin: Chīyoú) đã bị đánh bại ở Trác Lộc (tiếng Hoa:, pinyin: Zhuōlù; một địa danh cổ trên ranh giới tỉnh Hồ Bắc và Liêu Ninh ngày nay) bởi liên minh quân sự của Hoàng Đế (tiếng Hoa:, pinyin: Huángdì) và Viêm Đế (Yandi), các thủ lĩnh của bộ tộc Hoa Hạ (tiếng Hoa: pinyin: Huáxià) khi họ tranh giành quyền làm chủ lưu vực sông Hoàng Hà. La bàn được cho là lý do quyết định trong chiến thắng của người Hoa Hạ. Trận đánh này, được cho là diễn ra vào thế kỷ 26 TCN, đã diễn ra dưới điều kiện thời tiết mù sương và người Hoa Hạ đã có thể chiến thắng tổ tiên của người Miêu là nhờ có la bàn.

Sau thất bại, bộ tộc ban đầu của người Miêu được chia ra thành hai nhóm bộ tộc nhỏ, là Miêu và Lý (tiếng Hoa: pinyin: lí). Người Miêu tiếp tục di chuyển về phía tây nam còn người Lý về phía đông nam giống như bộ tộc Hoa Hạ (ngày nay là người Hán) mở rộng xuống phía nam. Trong suốt chiều dài lịch sử Trung Hoa, họ được nói đến như những kẻ "man di" do sự chênh lệch ngày càng tăng trong văn hóa và kỹ thuật so với người Hán. Một bộ phận các bộ tộc này đã bị đồng hóa thành người Hán trong thời kỳ nhà Chu (1122 TCN-256 TCN).

Có một phiên bản khác của thời kỳ hậu-Jiuli, người dân của Jiuli chia thành 3 nhóm đi theo 3 hướng khác nhau. Người ta nói rằng Xi Vưu có 3 con trai, và sau khi Jiuli thất thủ thì con trai cả của ông dẫn một số người về phía nam, con trai thứ dẫn một số người về phía bắc còn người con trai út ở lại Trác Lộc và đã bị đồng hóa theo văn hóa Hoa Hạ. Những người đi về phía nam thành lập ra nhà nước San-Miêu. Có lẽ vì sự phân chia thành nhiều nhóm nhỏ nên rất nhiều dân tộc ở Viễn Đông coi Xi Vưu là tổ tiên của mình, và vì thế nhiều câu hỏi được đặt ra về bộ tộc thực sự của Xi Vưu cũng giống như của người Hmông hay các dân tộc khác. Ví dụ, người Triều Tiên cũng cho Xi Vưu là tổ tiên của mình. Ngoài ra, theo chính sách hợp nhất các bộ tộc hiện nay của Trung Quốc, Xi Vưu được nhắc đến như là một trong những tổ tiên của người Trung Hoa cùng với các tổ tiên của người Hán là Hoàng Đế và Viêm Đế.

Có tài liệu cho rằng không phải là Viêm Đế (Đế Viêm) mà là Đế Du Võng (cháu 6 đời của Đế Viêm (Thần Nông) mới lập liên minh với Hiên Viên (sau này là Hoàng Đế) để chống lại Xi Vưu (Xuy Vưu)). Cụ thể như sau: Viêm Đế (Thần Nông)->??->Đế Minh->Đế Nghi->Đế Lai->Đế Du Võng, như vậy theo Lĩnh Nam chích quái thì Đế Du Võng là cháu gọi Lạc Long Quân là chú do Đế Minh còn sinh ra Lộc Tục và Lộc Tục sinh ra Lạc Long Quân.

Thuật ngữ "Miêu" lần đầu tiên được sử dụng bởi người Hoa vào thời kỳ tiền Tần, tức là trước năm 221 TCN, để chỉ các nhóm bộ tộc không phải là người Hoa ở phương nam. Nó thông thường được sử dụng trong các tổ hợp như "nanmiao", "miaomin", "youmiao" và "sanmiao" (三苗 Sānmiáo). Vào thời kỳ đó, những bộ tộc này sống ở phía nam sông Trường Giang, nhưng sau đó đã bị người Hoa đẩy lui xa hơn nữa về phía nam. Do phần lớn lãnh thổ của sáu triều vua (Đông Ngô, Đông Tấn, tiền Tống, Tề, Lương, Trần) nằm ở phía nam sông này, việc khuất phục người Miêu đã là mối quan tâm chính để đảm bảo sự ổn định của các triều đại này. Với sự cướp bóc của Ngũ Hồ ở các khu vực phía bắc con sông này, nhiều người Hán đã di cư xuống phía nam càng tăng cường thêm việc đồng hóa người Miêu thành người Hán.

Vào thời kỳ nhà Đường, người Miêu đã không còn là bộ tộc người chính không phải gốc Hán, ngoại trừ tại khu vực tỉnh Vân Nam ngày nay, ở đó 6 chiếu (tiếng Hoa: 詔 có nghĩa là "vương quốc") của người Miêu. Một số học giả cho rằng 6 chiếu là các nhóm người Di (Yi) hay người Bạch (Bai). Vương quốc nằm phía nam nhất là chiếu Mông Xá (蒙舍詔 Méngshězhào) hay Nam Chiếu (南詔 Nánzhào) thống nhất cả 6 chiếu để thành lập quốc gia độc lập trong đầu thế kỷ 8 với sự hỗ trợ từ phía nhà Đường. Tước hiệu của người đứng đầu nhà nước này là Nam Chiếu Vương (南詔王 Nánzhàowáng), có nghĩa là Vua của Nam Chiếu. Lo ngại về sự đe dọa ngày càng tăng từ phía Thổ Phồn (ngày nay là Tây Tạng) đã thúc đẩy triều đình Trung Quốc thiết lập một quan hệ hữu nghị với cả hai nước này. Nhà Đường cũng triển khai một khu vực quân sự, là Kiến Nam tiết sứ (劍南節度 Jiànnán Jiédǔ) nằm ở khu vực ngày nay là phía nam tỉnh Tứ Xuyên và giáp biên giới với Nam Chiếu.

Trong khoảng vài chục năm hòa bình đầu tiên ở thế kỷ 8, Nam Chiếu thường xuyên cống nộp thông qua người đứng đầu quân sự trong khu vực quân sự này, Kiến Nam tiết độ sứ (劍南節度使 Jiànnán Jiédǔshǐ), tới triều đình của người Hán. Khi nhà Đường suy yếu trong thời gian giữa thế kỷ 8, khu này đã có nhiều quyền tự do hơn. Họ đã yêu cầu các bộ tộc sống ở Nam Chiếu phát triển lực lượng quân sự để chống lại nhà Đường. Những người cai trị Nam Chiếu là những người nói tiếng Tây Tạng-Miến Điện, nhưng dân chúng thì có thể có cả tổ tiên của dân tộc Hmông ngày nay. Các thủ lĩnh quân sự Trung Hoa có những sự hăm dọa và yêu sách quá đáng. Một ví dụ là sự từ chối yêu cầu cho ngủ một đêm với hoàng hậu, vợ duy nhất của vua Nam Chiếu. Tất cả những yêu sách quá đáng đó cũng như đồ cống nộp nặng nề đã làm nổ ra cuộc nổi loạn của người Nam Chiếu trong niên biểu Thiên Bảo (742-756) của Đường Huyền Tông (hay Đường Minh Hoàng). Trước khi hành quân chống lại thủ lĩnh khu quân sự, vua Nam Chiếu đã cho khắc lý do của việc nổi dậy vào đá. Bia đá này ngày nay vẫn còn và có thể nhìn thấy (khu vực?). Nhà Đường lẽ ra có thể dễ dàng đánh bại quân Nam Chiếu nhưng sự tranh giành quyền lực trong các chỉ huy quân sự của khu này đã giúp cho quân Nam Chiếu tiến sâu vào lãnh thổ nhà Đường, gần như đã tới Thành Đô, thủ phủ của khu Kiến Nam. Việc bổ nhiệm các chức vụ cầm quyền bất tài cũng là một yếu tố. Nổi tiếng nhất là trường hợp của Dương Quốc Trung, anh trai của Dương Quý Phi (thiếp yêu của vua Đường). Mặc dù cuối cùng thì cuộc nổi loạn đã bị dẹp tan, nhưng nhà Đường cũng đã hoang phí những nguồn lực quý báu lẽ ra có thể sử dụng để bảo vệ biên giới phía bắc, điều đã dẫn tới cuộc nổi loạn của An Lộc Sơn gây ra nhiều thảm họa hơn.

Trong những năm sau đó, Nam Chiếu luôn có ưu thế trong quan hệ với nhà Đường và Thổ Phồn do cả hai nước này đều muốn liên minh với họ để cô lập kẻ thù của mình. Nam Chiếu đã tận dụng được cơ hội này và nhanh chóng phát triển thành một thế lực ở khu vực đông nam châu Á. Trong thời kỳ đỉnh cao của nó, các phần phía bắc của Việt Nam, Lào, Thái Lan và Miến Điện, Quảng Tây và phần phía đông của Quảng Đông, tây nam của Tứ Xuyên, Quý Châu và toàn bộ tỉnh Vân Nam ngày nay đều nằm dưới sự kiểm soát của họ. Thành Đô và Đại La (Hà Nội ngày nay) đều bị cướp phá hai lần.

Nam Chiếu dưới ảnh hưởng của nhà Đường trong các thế kỷ 8-9 đã dần dần chấp nhận văn hóa Trung Hoa cũng như trong thời gian đó đã xuất hiện mâu thuẫn nội bộ giữa các thị tộc đối địch. Cuối cùng họ Đoàn (段 duan4) đã thắng và thành lập Vương quốc Đại Lý. Trong thời nhà Đường và nhà Tống thuật ngữ "nam man" (南蠻 Nánmán, có nghĩa là "những kẻ man di phương nam không phải người Hán") đã được sử dụng. Tuy nhiên, tên gọi "miêu" vẫn được dùng để miêu tả một số dân tộc ở phương nam trong các sách của Phàn Xước (Fan Chuo) về các bộ tộc miền nam là Manshu (tức Man thư - viết năm 862).

Trong thời nhà Minh và nhà Thanh (1368-1911) "miao" và "man" (mán) đã được sử dụng đồng thời, từ thứ hai có lẽ là để gọi dân tộc Dao (傜 Yáo). Nhà Nguyên, Minh và Thanh chưa bao giờ đồng hóa hay kiểm soát chặt chẽ được các bộ tộc thiểu số. Kết quả là chính sách "dùng người man quản lý người man" (yiyi zhiyi) đã được thực thi. Ngoài ra, bức tường bản sao của Vạn Lý Trường Thành ở miền nam đã được dựng lên để bảo vệ và phân chia người Hán với những kẻ "man rợ miền nam". Về mặt chính trị và quân sự thì người Miêu vẫn tiếp tục là viên sỏi trong chiếc giày của đế chế Trung Hoa. Người Miêu đã có nhiều trận chiến chống lại người Hán. Người Hán đã sử dụng các biện pháp chính trị để lừa gạt người Miêu, họ tạo ra nhiều chức vụ với quyền lực thực sự cho người Miêu để lôi cuốn và đồng hóa người Miêu vào hệ thống chính quyền Trung Hoa. Trong thời nhà Minh và Thanh, các chức vụ chính thức như Kaitong (cai tổng) đã được tạo ra tại khu vực Đông Dương. Người Hmông có thể tham gia vào các chức vụ này cho đến những năm thập niên 1900, khi họ phải tham dự vào hệ thống chính trị thuộc địa của Pháp tại Đông Dương.

Trong năm 1960, nhiều người Hmông tại Lào được Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) tuyển dụng như là một phần của kế hoạch để chiến đấu và bảo vệ Lào chống lại quân đội Bắc Việt có số lượng đông và kỷ luật chặt chẽ hơn so với những người cộng sản của phong trào Pathet Lào tại nước này. Hoạt động của Pathet Lào được sử dụng để che đậy các hoạt động thâm nhập của quân đội Bắc Việt. Trên thực tế, quân đội các bộ tộc Lào của chính quyền hoàng gia Lào và của Pathet Lao chỉ tham gia có giới hạn trong các cuộc giao tranh, phần lớn các cuộc chiến diễn ra giữa người Hmông có sự hậu thuẫn của CIA và quân đội Bắc Việt. Một đội quân tương đương về số lượng người Hmông cũng đã được Pathet Lào tuyển dụng để chống lại chính quyền hoàng gia Lào và CIA.

Tướng Vàng Pao là một thủ lĩnh người Hmông được CIA nâng đỡ để chỉ huy Quân khu II ở miền bắc (MR2) chống lại sự xâm nhập của quân đội Bắc Việt. Chỉ huy sở của Vàng Pao nằm ở Long Chẹng, còn được biết trong tiếng Anh như là Lima Site 20 Alternate (LS 20A). Do các hoạt động quân sự tích cực ở đây, Long Chẹng đã trở thành thành phố lớn thứ hai tại Lào, với dân số lên tới 300.000, trong đó có 200.000 người Hmông. Long Chẹng khi đó có thể coi như là một tiểu quốc gia do nó có hệ thống ngân hàng, sân bay, trường học, quân đội, viên chức riêng cũng như nhiều cơ sở hạ tầng và dịch vụ khác nữa. Trước khi kết thúc Cuộc chiến Bí mật, Long Chẹng đã nằm trong tầm kiểm soát của Vàng Pao.

Cuộc chiến Bí mật đã diễn ra trùng với thời gian mà Mỹ chính thức tham gia vào Chiến tranh Việt Nam. Cuối cùng khi Mỹ rút khỏi Việt Nam thì tướng Vàng Pao cũng di tản sang Thái Lan. Nhiều người đã hỗ trợ Mỹ trong Cuộc chiến Bí mật đã cảm thấy không an toàn trong môi trường mới. Khoảng 300.000 người Hmông đã chạy sang Thái Lan, tạo ra các trại tị nạn. Đối với những người Hmông còn ở lại thì các cuộc chiến dữ dội vẫn còn tiếp diễn dưới sự chỉ huy của nhóm Chao Fa. Nhóm này có tham vọng lớn, bao gồm cả việc thiết lập một quốc gia có chủ quyền cho người Hmông. Tuy nhiên, do không có sự hỗ trợ về tài chính và quân đội, Chao Fa đã phải từ bỏ tham vọng của mình.

Trong những năm 1990, Liên hiệp quốc, với sự hỗ trợ từ phía chính quyền Clinton, bắt đầu công việc đưa người Hmông tị nạn trở lại Lào một cách bắt buộc. Quyết định này gây ra nhiều tranh cãi, do nhiều người Hmông nói rằng họ đã bị ngược đãi bởi chính quyền Lào khi họ trở về. Tuy nhiên, điều này cần kiểm chứng lại.

Việc đưa người Hmông tị nạn trở lại Lào đã bị chống đối ác liệt từ phía những người Mỹ bảo thủ và những người hoạt động nhân quyền. Năm 1995, tạp chí National Review có bài báo, ví dụ của Michael Johns cho rằng quyết định này là một sự "phản bội"[1].

Áp lực lên chính quyền Clinton đã làm thay đổi chính sách hồi hương của họ, là một thắng lợi chính trị đáng kể của người Hmông, phần lớn người Hmông tị nạn cuối cùng đã được định cư ở các nước khác, nhiều người trong số họ đã đến Mỹ. Cuộc định cư lớn cuối cùng khoảng 15.000 người Hmông từ trại Wat Tham Krabok diễn ra năm 2004.

Một bộ phận đáng kể người Hmông vẫn còn theo các lối sống truyền thống ở miền tây bắc Việt Nam. Với sự gia tăng của du lịch vào các khu vực này trong những năm 1990 đã giới thiệu cho nhiều người H'mông lối sống phương Tây, và trang phục truyền thống của người H'mông đang dần dần biến mất.

Một số người theo học thuyết sáng tạo tin rằng người Miautso (Hmông) là hậu duệ của các giáo trưởng trong kinh thánh, vì tên gọi của các vị vua của người Miautso theo dòng dõi nghe tương tự như tên của các vị chúa trong kinh thánh, và cũng theo đúng trật tự đó. Ví dụ: Se-teh = Seth, Lama = Lamech, Nuah = Noah,...

Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc Mông được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Với số dân hơn 80 vạn người, dân tộc Mông thuộc dân tộc thiểu số có số lượng cư dân đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc ở Việt Nam. Dân tộc Mông cư trú thường ở độ cao từ 800 đến 1500 m so với mực nước biển gồm hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc trong một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới Việt - Trung và Việt - Lào từ Lạng Sơn đến Nghệ An, trong đó tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông và Tây bắc Việt Nam như: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La...

Các tài liệu khoa học, cũng như các truyền thuyết đều cho biết rằng người Mông là tộc người di cư vào Việt Nam sớm nhất khoảng 300 năm và muộn nhất là 100 năm về trước. Mông là tên tự gọi có nghĩa là người (Môngz). Còn các dân tộc khác còn gọi dân tộc này với các tên Miêu, Mèo, Mẹo. Căn cứ vào đặc điểm về dân tộc học và ngôn ngữ học, người ta chia tộc Mông ra làm các ngành: Mông Trắng (Môngz Đơư), Mông Hoa (Môngz Lênhx), Mông Đỏ (Môngz Si), Mông Đen (Môngz Đuz), Mông Xanh (Môngz Njuôz), Na Miểu (Mèo nước). Trong đó, cũng có ý kiến cho rằng Mông Hoa và Mông Đỏ là một.

Tiếng Mông là một ngôn ngữ không có chữ viết. Năm 1961 phương án chữ Mông theo tự dạng Latin đã được chính phủ Việt Nam phê chuẩn (cụ thể bộ chữ được xây dựng theo ngữ âm ngành Mông Lềnh Sa Pa — Lào Cai) có bổ sung thêm một số âm vị của các ngành Mông khác, gồm 59 phụ âm (có 3 âm vị phụ âm của ngành Mông Đơư và Mông Sua), 28 vần và 8 thanh. Vào thập niên 1970, phong trào học chữ Mông phát triển khá mạnh ở hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam, nơi có nhiều người Mông sinh sống. Nhưng đến nay với nhiều nguyên nhân khác nhau mà tình hình học chữ Mông đã không còn phát triển như trước kia nữa.

Ngoài Việt Nam ra, các cư dân Mông còn cư trú ở một địa bàn khá rộng lớn thuộc phía Nam Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Miến Điện, và đặc biệt sau năm 1975 cộng đồng người Mông di cư sang sinh sống ở các nước như Mỹ, Pháp, Úc con số lên tới hàng 100.000 người (chủ yếu di cư từ Lào). Trong các quốc gia kể trên, Trung Quốc có số lượng người Mông đông đảo hơn cả với hơn 7 triệu người (số liệu thống kê 1990) phân bố ở các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây, Hải Nam và Hồ Bắc. Trong 56 dân tộc ở Trung Quốc, dân tộc Mông (Miêu) chỉ đứng sau các dân tộc Hán, Choang, Mãn, Hồi. Trên thực tế cho thấy các cư dân Mông ở Việt Nam vẫn có quan hệ với các cư dân đồng tộc ở các nưóc khác, đặc biệt là những địa bàn sát biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và Lào.

Cho đến nay chúng ta đều biết đến tiếng Mông là một ngôn ngữ nằm trong hệ ngôn ngữ Miao-Yao (hay Mông-Mien). Nhưng trên thực tế vấn đề phân loại theo quan hệ họ hàng của ngôn ngữ này đã từng có nhiều ý kiến khá khác nhau. Một số nhà ngôn ngữ học xếp ngôn ngữ Mông thuộc nhánh Miao-Yao trong hệ ngôn ngữ Hán-Tạng (trong đó phải kể đến các nhà khoa học Trung Quốc). Trong những ý kiến đáng chú ý ta còn phải kể đến Paul K. Benedict với quan điểm quy các ngôn ngữ trong khu vực thành 2 hệ cơ bản: Hán-Tạng và Nam-Thái (Austro-Thai). Trong đó vị trí các ngôn ngữ Miao-Yao được định vị trong hệ Nam Thái.

Còn André G. Haudricourt từng bước đem so sánh cả hệ thống thanh điệu và cả lớp từ vựng cơ bản giữa các ngôn ngữ Miao-Yao với các ngôn ngữ Hán-Tạng và Nam Á. Ông đã cho rằng "các ngôn ngữ Miao-Yao hình như tạo nên mối liên hệ giữa các ngôn ngữ Nam Á và các ngôn ngữ Tạng-Miến". Đây cũng chính là cơ sở để một hướng các nhà ngôn ngữ sau này không xếp các ngôn ngữ Miao-Yao vào Nam Á hay Hán-Tạng mà là một họ ngôn ngữ độc lập vì những kiến giải của Haudricourt "không thuần tuý là sự so sánh từ vựng mà là sự phục nguyên, một thao tác thể hiện tính quy luật của những chuyển đổi âm thanh". Kế thừa những nghiên cứu đi trước, Martha Ratliff đã đưa ra một bảng phân loại các ngôn ngữ Mông-Miến (hay Miao-Yao) khá chi tiết trong đó tác giả đã định vị ngành Mông trắng (Mông Đơư) như sau:

Hệ ngôn ngữ (language family): Mông-Miến (Hmong-Mien)
Nhóm ngôn ngữ: Mông (Hmongic)
Nhánh: thuộc các phương ngôn Tứ Xuyên - Quý Châu - Vân Nam (Sichuan - Quizhou - Yunnan), còn gọi là nhánh Mông phía Tây (West Hmongic branch)
Tiểu nhánh: Tứ Xuyên - Quý Châu - Vân Nam
Phương ngữ: Mông trắng (White Mông)
Trong cuốn từ điển Bách khoa thư ngôn ngữ đã phân các ngôn ngữ Hmong-Mien (hay Miao-Yao) thành hai nhánh chính:

Mông - gồm có: Dananshan Hmong, Hmong Đông, Hmong Bắc, Hmong Tây, Hmong Daw, Hmong Njua, Miao Đỏ, Pa Heng, Punu
Mien (hay Dao) - gồm có: Ba Pai, Mien, Biao Mien, Iu mien, Mun, She
ở đây Mông Leng (Mông Lềnh) được xác định như một tên gọi khác của ngành Mông Njua (Mông Xanh) nằm trong nhánh Mông.
manutd is offline Trả Lời Với Trích Dẫn





Hai thuật ngữ, "Miêu" và "Hmông" ("Mèo" và "H'Mông" tại Việt Nam), hiện thời đều được sử dụng để chỉ một trong những nhóm thổ dân ở Trung Quốc. Họ sống chủ yếu ở miền nam Trung Quốc, trong các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên, Quảng Tây và Hồ Bắc. Theo điều tra dân số năm 2000, số lượng người Miêu ở Trung Quốc khoảng 9,6 triệu. Ngoài phạm vi Trung Quốc họ còn sống ở Thái Lan, Lào (ở đó gọi là Lào Sủng), Việt Nam và Myanma do di cư bắt đầu vào khoảng thế kỷ 18, cũng như tới Hoa Kỳ, Guyane thuộc Pháp, Pháp và Úc như là kết quả của các cuộc di cư gần đây sau khi kết thúc Chiến tranh Việt Nam. Tất cả các nhóm này cộng lại xấp xỉ 8 triệu người nói tiếng Miêu. Tại Việt Nam, có khoảng trên 780.000 người H'Mông. Nhóm ngôn ngữ này bao gồm 3 thứ tiếng và 30-40 thổ ngữ có thể hiểu lẫn nhau được, cùng với tiếng Bunu thuộc về nhánh Miêu trong hệ ngôn ngữ H'Mông-Miền (hay hệ Miêu-Dao).

Các nhà nghiên cứu phương Tây xử lý vấn đề thuật ngữ này không thống nhất. Những người đầu tiên sử dụng tên gọi theo kiểu Trung Hoa trong một loạt các phiên âm: Miao, Meau, Meo, Mo, Miao-tse, Miao-tsze, Miao-tseu (Miêu tộc) v.v. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của người H'Mông ở Lào (một phân nhóm của người Miêu) một số nhà nghiên cứu đương đại đã chấp nhận thuật ngữ khác là "H'Mông".

Bản thân người Miêu thì sử dụng hàng loạt các tên tự gọi khác và người Trung Quốc thông thường phân loại họ theo màu sắc chủ yếu đặc trưng nhất của phụ nữ Miêu. Danh sách dưới đây liệt kê các tên tự gọi, tên gọi màu sắc và khu vực chính mà 4 nhóm chính của người Miêu sinh sống tại Trung Quốc:

Ghao Xong; Miêu đỏ; tây Hồ Nam.
Hmu, Gha Ne (Ka Nao); Miêu đen; đông nam Quý Châu.
Hmao; Miêu hoa lớn; tây bắc Quý Châu và đông bắc Vân Nam.
Hmong; Miêu trắng, Miêu xanh, Miêu hoa nhỏ; nam Tứ Xuyên, tây Quý Châu và nam Vân Nam.
Chỉ có nhóm thứ tư sử dụng thuật ngữ "Hmông" (hay "H'Mông"). Ngoài ra, chỉ có người Hmông (và một số Hmu) có người sinh sống ngoài phạm vi Trung Quốc. Những người Hmông phi Trung Quốc này cho rằng thuật ngữ "Hmông" không chỉ để nói tới nhóm thổ ngữ của họ, mà còn là để chỉ các nhóm khác sống tại Trung Quốc. Nói chung, họ cho rằng thuật ngữ "Miao" (hay "Miêu") là một thuật ngữ xúc phạm và không nên sử dụng nó. Thay vì điều này thuật ngữ "Hmông" được sử dụng để chỉ mọi nhóm người thuộc dân tộc này. Tuy nhiên, điều này có thể là kết quả của sự nhầm lẫn biểu hiện và ý nghĩa của từ. Các nhà thám hiểm và xâm lược Trung Hoa đặt cho người Hmông tên gọi "Miao" (hay "Miêu"), sau đó trở thành "Meo" (Mèo) và "Man" (Mán). Thuật ngữ sau để chỉ những kẻ "man di, mọi rợ ở miền nam". Từ "miêu" cũng được sử dụng trong các ngôn ngữ khác của khu vực Đông Nam Á như tiếng Việt, Lào, Thái v.v. trong dạng "Meo" (tức là "Mèo"). Mặc dù rất nhiều người nói các thứ tiếng này (và cả người Trung Quốc) không nghi ngờ gì khi cho rằng "Miêu" là những kẻ man di, nhưng điều này không có cách gì để chứng minh từ này có nghĩa như vậy. Có thể những người nói tiếng Việt, Lào, Thái đã lấy từ "miao" (miêu) từ tiếng Trung Hoa, nhưng đã bỏ mất ý nghĩa nguyên thủy của nó là "cây giống" và sử dụng nó chỉ để gọi những người mà họ cho là man rợ. Nó được phát âm với giọng sai trong tiếng Thái hay với giọng cao trong tiếng Hán Quảng Đông thì có ý nghĩa là "mèo" (đây là khả năng của nguồn gốc tượng thanh). Trong cách dịch của người Việt các từ Hán-Việt thì "miêu" cũng là "mèo". Điều này giải thích tại sao lại có sự phản đối quyết liệt như vậy chống lại thuật ngữ "miêu" trong các nhóm người Hmông tại khu vực Đông Nam Á.

Tại Trung Quốc, tình hình lại khác hẳn vì hai nguyên nhân chính. Các nhóm người Miêu có các tên tự gọi khác hẳn và chỉ một số rất ít sử dụng từ "Hmông". Những người còn lại thì không có ý kiến gì khi cho rằng "Hmông" là thích hợp hơn so với "Miêu" trong vai trò của tên gọi chung. Kể từ khi có phân loại chính thức các dân tộc thiểu số trong thập niên 1950 một số dân tộc thiểu số đã khiếu nại về từ ngữ được sử dụng ở Trung Quốc để gọi tên dân tộc họ và đã đề nghị chính quyền thay đổi cách sử dụng chính thức. Nhóm người Miêu ở Trung Quốc, theo bài báo năm 1992 trong Dự án bản tin Thái-Vân Nam [TYPN 1992], đã không có khiếu nại gì. Lý do thứ hai thuần túy là thực dụng: không có khả năng đưa từ "hmong" vào trong tiếng Trung do âm tiết của nó không tồn tại trong tiếng Trung. (Cũng giống như trong tiếng Anh là có rất ít người có khả năng phát âm các âm điếc giọng mũi). Tuy nhiên, trong tiếng Anh, không giống như tiếng Trung, người ta có khả năng viết được từ "Hmong".

Người Hmông viết tên gọi của dân tộc mình giống như "Hmoob". Hai nguyên âm chỉ ra rằng nó được phát âm giống như âm mũi, và một số phụ âm được sử dụng ở cuối của âm tiết để biểu thị giọng đọc. Vì thế từ America được viết giống như là Asmeslivkas trong tiếng Hmông.

Thuật ngữ "Hmông" được đề nghị như là tên gọi của các nhóm người Miêu nói thổ ngữ Hmông ở Trung Quốc và người Miêu ngoài Trung Quốc. Việc sử dụng từ này ngày nay đã được thiết lập vững chắc trong sách vở phương Tây. Rất nhiều người nhầm lẫn với tình trạng của các thuật ngữ hiện tại và không nhìn thấy mối liên quan giữa người Miêu và Hmông.

Người Hmông có lịch sử có lẽ từ cuối thời kỳ băng hà. Lịch sử sơ kỳ của họ có thể lần theo dấu vết của các câu truyện truyền khẩu và các lễ nghi an táng của họ.

Trong truyện truyền khẩu, truyền thuyết của người Hmông nói rằng họ đã đến từ những vùng đất cực kỳ lạnh lẽo, ở nơi đó bóng tối kéo dài 6 tháng và ánh sáng cũng kéo dài 6 tháng. Từ nơi này, họ đã đến Trung Quốc theo những chuyến đi săn. Một người thợ săn và con chó của ông đã theo đuổi con mồi trong một số ngày trong tuyết. Người thợ săn hết lương thực và phải quay về để chuẩn bị tiếp tục đi săn mà không có con chó của mình. Khi người thợ săn bắt đầu lên đường trở lại thì con chó đã ở phía sau lưng ông. Người thợ săn hôn hít con chó của mình và phát hiện thấy có những hạt cây lạ dính trên lông của nó. Lúc đó, tuy người Hmông cho rằng toàn thể thế giới đã được thám hiểm hết, nhưng những hạt lạ đã dẫn dắt họ tới Trung Hoa.

Nơi thứ hai trong đó miêu tả người Hmông từ nơi nào đến diễn ra trong nghi thức an táng "chỉ đường" của họ. Trong nghi thức này, người đã chết được chỉ dẫn cho về với tổ tiên. Người ta tin rằng người đã chết rời bỏ thế giới này để trở về với cội nguồn của họ, là một nơi cực kỳ lạnh lẽo. Thời kỳ băng hà cuối cùng đã kết thúc cách đây khoảng 10.000 năm và nó xảy ra cùng thời điểm với sự ra đời của người hiện đại. Các điều kiện được miêu tả trong truyện truyền khẩu và nghi thức an táng của người Hmông chắc chắn nói đến một thế giới chỉ có toàn tuyết và băng giá, là những thứ thấy được cho đến khi kết thúc thời kỳ băng hà gần đây nhất.

Hoàng Đế đánh Xi Vưu

Cách đây hơn 4000 năm, ở lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang có nhiều thị tộc và bộ lạc sinh sống. Hoàng Đế là một trong những thủ lĩnh bộ lạc nổi tiếng nhất trong truyền thuyết.

Bộ lạc do Hoàng Đế làm thủ lĩnh ban đầu sống ở vùng Cơ Thuỷ thuộc tây bắc Trung Quốc, sau dời tới vùng Trác Lộc bắt đầu định cư, phát triển chăn nuôi và trồng trọt.

Viêm Đế (Thần Nông) là thủ lĩnh một bộ lạc khác đồng thời với Hoàng Đế, cư trú tại vùng Khương Thuỷ ở tây bắc Trung Quốc. Theo truyền thuyết Trung Hoa thì Viêm Đế có họ hàng thân tộc với Hoàng Đế.

Còn Xi Vưu là thủ lĩnh bộ tộc Cửu Lê. Họ chế tạo ra các loại vũ khí như đao, kích, cung, nỏ, thường dẫn bộ lạc đi xâm chiếm, cướp phá các bộ lạc khác.

Có lần, Xi Vưu xâm chiếm vùng đất của Viêm Đế. Viêm Đế đem quân chống lại nhưng thất bại. Viêm Đế đành chạy đến Trác Lộc, xin Hoàng Đế giúp đỡ. Hoàng Đế liên kết các bộ lạc, chuẩn bị lương thực, vũ khí, triển khai một trận quyết chiến với Xi Vưu trên cánh đồng Trác Lộc.

Về trận đại chiến này, đã có nhiều truyền thuyết hoang đường, khi quân của Hoàng Đế thừa thắng đuổi theo quân của Xi Vưu, trời bỗng nổi cuồng phong, là do Xi Vưu đã được sự giúp đỡ của thần gió, thần mưa. Hoàng Đế cũng nhờ Thiên Nữ giúp đỡ. Cuối cùng, Xi Vưu bị đánh bại. Những truyền thuyết trên chỉ có tính chất phản ánh sự khốc liệt của cuộc chiến.

Từ đó, Hoàng Đế được nhiều bộ lạc ủng hộ. Nhưng sau đó 2 bộ lạc của Hoàng Đế và Viêm Đế lại nảy ra xung đột, hai bên đánh nhau một trận ở Bản Tuyền, Viêm Đế thất bại. Từ đó Hoàng Đế trở thành thủ lĩnh của liên minh bộ lạc các vùng Trung Nguyên.

Trong các truyền thuyết cổ đại Trung Quốc, Hoàng Đế rất được tôn sùng. Người đời sau đều cho rằng Hoàng Đế là thuỷ tổ của người Hoa Hạ (tức dân tộc Hán ngày nay) và coi mình là con cháu của Hoàng Đế. Viêm Đế và Hoàng Đế vốn thân thuộc nên sau này hai bộ lạc lại hoà hợp, nên người Trung Quốc thường tự xưng mình là con cháu Viêm-Hoàng. Để kỉ niệm vị tổ tiên chung đó, người ta xây lăng Hoàng Đế ở Kiều Sơn, phía bắc huyện Hoàng Lăng tỉnh Thiểm Tây.

Hoàng đế là tước vị cao của vua Trung Quốc trong hệ thống phong kiến sau đời nhà Chu. Từ đời nhà Chu ở Trung Quốc trở về trước, tước vị để chỉ vua là Vương tức người có quyền lực tối cao của quốc gia. Năm 221 trước Công Nguyên, Tần Vương Doanh Chính thống nhất các nước nhỏ, các dân tộc khác nhau trên một vùng rộng lớn tạo ra tiền đề để tạo thành nước Trung Quốc sau này. Vua Tần là Doanh Chính vốn đang xưng vương không muốn dùng lại danh xưng Vương như vua nhà Chu, mà sau này sẽ được dùng làm tước phong tặng cho các công thần của mình (tước Vương). Để chứng tỏ đẳng cấp cao hơn của vua nhà Tần mới so với vua nhà Chu cũ, phân rõ tôn ti trên dưới với các vua cai trị các tiểu quốc cũ đã bị tiêu diệt, tỏ rõ thần quyền phong kiến chính danh với dân các nước đã bị chiếm đọat, tiêu diệt, Tần Doanh Chính đã ghép chữ Hoàng là danh xưng của 3 vị vua thời Tam hoàng và chữ Đế là danh xưng của 5 vị vua thời Ngũ đế thời thượng cổ thành tước vị hoàng đế, và trở thành vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử nước Tần, tức là Tần Thủy Hoàng. Từ đó các vị vua phong kiến tập quyền chính thống ở Trung Quốc cũng dùng danh vị này, và phong tước Vương đã được dùng cho các bề tôi.

Ngôi vi của vua phong kiến xưa ở Trung Quốc tức Hoàng Đế theo chế độ tông pháp tức "cha truyền con nối". Khi Trung Quốc bị chia cắt, các vua đều tự xưng là Hoàng đế. Hoàng đế cuối cùng ở Trung Quốc là Phổ Nghi, thoái vị năm 1911. Viên Thế Khải cũng xưng làm Hoàng Đế. Hồng Tú Toàn thì lại xưng là Thiên Vương với ý cao quý hơn cả Hoàng Đế nhà Thanh.

Vua ở Việt Nam mỗi khi giành được độc lập từ Trung Quốc cũng tự xưng hoàng đế để không kém vua Trung Quốc về mặt danh xưng, như Mai Hắc Đế, Đinh Tiên Hoàng, Nhà Lý, Nhà Trần, Nhà Lê, Quang Trung hoàng đế, Nhà Nguyễn. Hoàng đế cuối cùng ở Việt Nam là Bảo Đại, thoái vị năm 1945.

Hoàng đế ở Nhật Bản xưng là Thiên hoàng.

Ở châu Âu, Vua (emperor) được dịch ra tiếng Việt là hoàng đế để phân biệt với vua (king) ở chỗ hoàng đế không ở dưới quyền của Giáo hoàng. Chẳng hạn các Hoàng đế La Mã trước khi Thiên Chúa giáo trở thành quốc giáo, Hoàng đế Napoléon I của Pháp, Hoàng đế của Đế quốc La Mã thần thánh (Holy Roman Empire).

Tất cả những gì liên quan đến hoàng đế đều có ghép chữ Hoàng hoặc chữ Đế. Vợ chính của hoàng đế là hoàng hậu, con trai là hoàng tử, con gái là công chúa, cha của hoàng đế nếu còn sống là thái thượng hoàng, mẹ là hoàng thái hậu, bà nội là thái hoàng thái hậu.

Hoàng Đế

Hoàng Đế (Trung phồn thể, Trung giản thể, bính âm: huángdì) là một thủ lĩnh huyền thoại và anh hùng văn hoá người Trung Quốc được coi là thuỷ tổ của mọi người Hán. Lưu ý chữ hoàng ở đây chỉ sắc vàng, gọi nôm na là ông Vua Vàng, khác với hoàng trong Hoàng đế là tên gọi cho vua Trung Quốc kể từ thời nhà Tần (xem Tần Thuỷ Hoàng).:smile 50:

Hoàng Đế được coi là một trong Ngũ Đế, theo huyền sử Trung Quốc thì Hoàng Đế trị vì trong khoảng 2698 TCN đến 2599 TCN.

Theo truyền thuyết thì việc Hoàng Đế rút về phía tây tại Trận Trác Lộc đánh thủ lĩnh Xi Vưu là cái mốc hình thành người Hán

Thần Nông

Là một trong các vị Tam Hoàng Ngũ Đế của Trung Hoa, là người đầu tiên đã dạy dân nghề làm ruộng, chế ra cày bừa và là người đầu tiên đã làm lễ Tịch Điền hoặc Hạ Điền.

Là tên gọi dân gian của chòm sao Thiên Hạt. Chòm sao này còn có các tên gọi khác như Hổ Cáp, Bọ Cạp hay Scorpius.:biggrin:

Thần Nông , hay Viêm Đế, là một trong các vị vua Trung Hoa đầu tiên đã dạy dân nghề làm ruộng, chế ra cày bừa và là người đầu tiên đã làm lễ Tịch Điền (còn gọi là lễ Thượng Điền, tổ chức sau khi gặt hái, thu hoạch mùa màng) hoặc Hạ Điền (lễ tổ chức trước khi gieo trồng), cũng như nghề làm thuốc trị bệnh, cho nên trong dân gian có câu Thần Nông giáo dân nghệ ngũ cốc (tức Thần Nông dạy dân trồng ngũ cốc). Theo truyền thuyết phương nam thì Thần Nông là tổ tiên năm đời của Lạc Long Quân. Lạc Long Quân và Âu Cơ được coi là tổ tiên của người Việt.

Lễ Thần Nông tức là lễ tế vua Thần Nông để cầu mong được mùa và nghề nông phát đạt.

Trên các quyển lịch cổ hàng năm, người ta thường vẽ một mục đồng dắt một con trâu. Mục đồng tức là vua Thần Nông, còn con trâu tượng trưng cho nghề nông.

Hình mục đồng cũng như con trâu thay đổi hàng năm tùy theo sự ước đoán của Khâm thiên giám về mùa màng năm đó sẽ tốt hay xấu.:smile 23:

Năm nào được coi là được mùa, Thần Nông có giày dép chỉnh tề, còn năm nào mùa màng bị coi là kém, Thần Nông có vẻ như vội vàng hấp tấp nên chỉ đi giày một chân. Con trâu được đổi màu tùy theo hành của mỗi năm, nó có thể có một trong 5 màu vàng, đen, trắng, xanh, đỏ đúng với các hành Thổ, Thủy, Kim, Mộc, Hỏa.

Thời phong kiến, hàng năm đều có tục tế và rước Thần Nông tại triều đình cũng như ở các địa phương.

Lễ tế Thần Nông hàng năm cử hành vào ngày Lập xuân, bởi vậy nên lễ tế Thần Nông còn được gọi là tế xuân.

Theo chỉ dụ của vua Minh Mạng, hàng năm sau tiết Đông chí, tòa Khâm thiên giám phải lo sửa soạn việc tế Thần Nông. Các quan cùng nhau họp để nặn trâu và tượng Thần Nông.

Trước ngày lập xuân hai ngày, tại gần cửa Đông Ba (ngày nay là cửa chính Đông), các quan Khâm thiên giám cho lập một cái Đài hướng đông. Trâu và tượng Thần Nông cũng được đưa tới lưu tại phủ Thừa Thiên để ngày hôm sau các quan trong phủ mới rước từ phủ tới Đài. Các quan vận lễ phục, có quân lính mang gươm giáo, tàn lọng, cờ quạt theo hầu.

Tới Đài thì một lễ đơn giản được cử hành, ngụ ý trình với Thổ Công về sự hiện diện của tượng Thần Nông và trâu. Sau đó, trâu và tượng Thần Nông lại được khiêng về kho cất. Hôm tế xuân, tượng và trâu lại được rước ra Đài, nhưng lần này đi rước là các quan bộ Lễ và các quan phủ Thừa Thiên. Khi đám rước đi qua cung vua, một viên thái giám vào tâu để vua biết. Sau đó, đám rước lại tiếp tục đi và khi đi qua bộ Lễ, một viên quan đánh vào mông trâu ba roi, có ý thôi thúc trâu phải làm việc.

Tới Đài, các quan làm lễ tế Thần Nông theo như nghi lễ các cuộc tế khác. Tế Thần Nông xong, trâu và tượng Thần Nông được quân lính mang đi chôn sau buổi lễ.

Tại các tỉnh, trong ngày Lập xuân cũng có lễ tế Thần Nông và lễ cũng được sửa soạn từ sau ngày Đông chí. Các quan tỉnh phụ trách việc hành lễ. Trâu và tượng Thần Nông cũng được đem chôn.

Người Dao Tuyển, để cảm tạ công ơn và cầu xin cho mùa màng bội thu, nhà nhà hạnh phúc thì lễ hội ngày 6 tháng 6 âm lịch là ngày cúng Thần Nông lớn nhất trong năm. Ngoài ra họ còn thờ cúng Thần Nông vào các ngày 1 tháng 1 âm lịch và 9 tháng 9 âm lịch hàng năm.

Có tài liệu cho rằng Hoàng Đế và Thần Nông là một người. Có tài liệu thì lại cho rằng Phục Hi, Thần Nông và Hoàng Đế là ba người khác nhau (gọi chung là Tam Hoàng). Thực ra tất cả chỉ đều là huyền thoại, không có gì đảm bảo là họ là ba người hay chỉ là một hoặc hai người.

Câu hỏi tại sao người Việt nhận là con cháu của Thần Nông, một trong những ông vua đầu tiên của Trung Hoa là vấn đề được nhiều người tranh cãi. Một số nhà nghiên cứu hiện nay, dựa trên các dữ liệu về sử học, thần thoại học, ngôn ngữ học, đã giả thiết rằng Thần Nông là một vị thần có nguồn gốc từ phương nam (từ phía nam sông Dương Tử xuống đến hết Việt Nam ngày nay, đó là vùng đất cư trú của cư dân Bách Việt).

Sau khi nước Trung Hoa mở rộng từ phía tây sang phía đông (giai đoạn một), rồi từ phía bắc xuống phía nam (giai đoạn hai) thì Thần Nông được người Trung Hoa sát nhập vào văn hóa của họ và được coi là một trong các "ông vua" đầu tiên của họ. Thực ra trước đó, Thần Nông đã được coi là "ông tổ" của một số bộ tộc Bách Việt. Và sau này, do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa rất mạnh, nhiều người lầm tưởng người Việt nhận một ông vua Trung Hoa làm ông tổ của mình.

Các dữ liệu ủng hộ giả thuyết trên:

Thần Nông tức là vị thần về nông nghiệp, vị thần này thường được hình dung cưỡi trâu để đi lại nên vị thần gắn liền với văn hóa lúa nước.

Thần Nông còn có một tên gọi khác là Viêm Đế (vua xứ nóng - vua phương nam), và được coi là vị thần cai quản phương nam.

Cách đọc từ Thần Nông là cách đọc của phương nam, người phương bắc sẽ có xu hướng đọc là Nông Thần.

Tuy nhiên, điều này bị phản bác rằng từ Thần Nông vẫn hiểu được theo ngữ pháp phương bắc, và có nghĩa là người nông phu-thần linh.

Truyền thuyết của một số dân tộc thiểu số của Việt Nam (ít bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa) như dân tộc Mèo cũng coi Thần Nông là ông tổ của nghề trồng lúa nước.

Phổ Nghi hoàng đế cuối cùng của triều đại Mãn Thanh

Phổ Nghi tên chính là Ái Tân Giác La Phổ Nghi(1906-1967),lên ngôi năm 1909 niên hiệu Tuyên Thống là hoàng đế thứ 12 đồng thời cũng là vị hoàng đế cuối cùng của triều đại Mãn Thanh,Ông thoái vị sau cuộc cách mạng Tân Hợi(1911) thành lập Trung Hoa Dân Quốc,nhưng vẫn sống trong tử cấm thành cùng với hòang tộc với 1 số điều kiện ưu đãi của chính phủ Trung Hoa dân quốc.
Năm 1924 khi quân phiệt Phùng Ngọc Tường tấn công Tử Cấm Thành,ông chạy vào trốn tránh ở sứ quán Nhật bản tại Bắc Kinh.tháng 3 năm 1934 ông được người Nhật đưa lên làm vua "nước Mãn Châu ở Đông bắc Trung Quốc,kéo dài cuộc sống bù nhìn suốt thời kì phát xít Nhật tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc.
Tháng 8 năm 1945 Hồng Quân Liên Xô tấn công tiêu diệt độ quân Quan Đông của Nhật Bản ở Vùng Đông Bắc Trung Quốc ông bị Hồng Quân Liên Xô bắt và đưa về Liên Xô,Năm 1949 sau khi nước CHND Trung Hoa được thành lập chính phủ Liên Xô trao trả Phổ Nghi cùng với 1 số tội phạm chiến tranh khác cho chính phủ CHND Trung Hoa.
10 năm sau ngày thành lập nước tức là vào năm 1959 Chính Phủ Trung Quốc ra lệnh dặc xá 1 số tội phạm chiến tranh đã thực sự tiếp thu cải tạo và hối cải,Phổ Nghi cùng nhiều người khác đã được ân xá và hưởng quyền công dân.
Chúng ta hãy cùng bàn luận về cuộc đời và những câu truyện xung quanh nhân vật lịch sử này để hiểu rõ hơn về triều đại Mãn Thanh qua đó hiểu được hoàn cảnh lịch sử của việc tàn lụi 1 triều đại to lớn tồn tại qua 12 đời vua và việc hình thành lên nước CHND Trung Hoa như thế nào?

THÀNH CÁT TƯ HÃN

Suốt bao thế kỉ nay cả thế giới đều coi Thành-Cát-Tư-Hãn như là một đại họa giáng xuống nhân loại. Cuộc đời của ông là một hình ảnh thu gọn lại mười hai thế kỷ mà dân du mục miền đồng cỏ đã tràn ra bốn phương tàn phá các dân tộc định cư có nền văn minh vững chãi. Trước ông không có nhà chinh phục nào gây được uy vũ làm kinh hoàng cả thiên hạ, đến nỗi khi dân Âu Châu nghe đến tên Thành-Cát-Tư-Hãn đều hãi hùng cho là “ngày tận thế đã tới rồi!”. Ông áp dụng triệt để lối khủng bố để cai trị và thẳng tay tàn sát để ngăn ngừa những cuộc quật khởi chống đối. Những gì mà Âu Châu đã lên án Attila và Ấn Độ đã lên án Mihirakonia thật chẳng thấm vào đâu so với những cuộc tàn phá của Thành-Cát-Tư-Hãn ở những nước bại trận như Trung Quốc, Đại Hồi…


Nhưng các sử gia gần đây khi nghiên cứu tỉ mỉ cuộc đời của Thành-Cát-Tư-Hãn đều nhận thấy rằng tính tàn bạo của ông là do hoàn cảnh sống gay go khốc liệt ở miền đồng cỏ hoang mà ra - một thứ tàn bạo của thiên nhiên - khác hẳn với Tamerlan (nhà chinh phục này phải chịu trách nhiệm về hành động của mình vì vốn sinh trưởng trong thế giới văn minh). Trong khuôn khổ lối sống, hoàn cảnh đất đai và chủng tộc của ông, Thành-Cát-Tư-Hãn, dưới con mắt các sử gia, là một nhân vật có tâm hồn bình thản, có lương tri vững chắc, rất mực điều độ, biết nghe lời phải, biết giữ tín nghĩa với bạn bè, thật rộng lượng và giàu tình cảm dù lắm khi rất nghiêm khắc, và ông thật sự có những đức tính căn bản của một nhà lãnh đạo. Dĩ nhiên ta phải hiểu theo nghĩa lãnh đạo các dân tộc du mục, chứ không phải dân định cư. Trong khuôn khổ ấy, ông đã tỏ ra là người được thiên phú cái biệt tài lập trật tự và giỏi trị dân. Bên cạnh cái tính tàn bạo đến khủng khiếp, người ta thấy ông có một khía cạnh cao thượng, quí phái không thể phủ nhận được. Một trong những nét nổi bật nhất là tính khinh ghét tột độ những kẻ phản bội. Tất cả những kẻ lầm tưởng rằng phản bội chủ cũ sẽ đựơc tín nhiệm nơi ông đều bị giết phăng đi không chừa người nào. Trái lại sau một trận chiến thắng, ông thường ban thưởng trọng hậu, hoặc thâu dụng dưới trướng những kẻ tỏ ra kiên trung với chủ trước của họ. Một kẻ yếu một khi đã đặt mình dưới sự che chở của ông, đều được bảo vệ đến cùng và được ông lưu tâm giúp đỡ suốt đời, không có gì làm lay chuyển nổi lời hứa hẹn của ông đã thốt ra.


Về mặt chính trị, Thành-Cát-Tư-Hãn không phải là một nhà lãnh đạo đã dại dột ngỏanh mặt trước những kinh nghiệm quí báu của các dân tộc văn minh. Trong số những cận thần của ông người ta thấy có nhiều cố vấn ngoại quốc như Tatatonga người Thổ phồn, Mahmoud Yalawatch người Hồi, Chu Thai người Khiết Đan... và nhờ biết nghe lời phải của các cố vấn ấy mà guồng máy cai trị của ông tiến dần đến chỗ biết dùng văn tự, biết lập thuế má và giảm bớt những cuộc đàn áp man rợ.


Về mặt quân sự, người ta đã bình luận rất nhiều về chiến lược, chiến thuật của Thành-Cát-Tư-Hãn. Có người đã sánh với chiến lược của Frédéric II, hoặc của Nã-Phá-Luân. Và gần đây cố Đại tướng Mac Arthur của Hoa Kỳ đã xác nhận thêm: “Tất cả những nguyên tắc về chiến lược của Thành-Cát-Tư-Hãn ở thời nào cũng là một kho tàng vô cùng quí giá cho các binh gia. Không có binh thư chiến sách nào rõ ràng sáng sủa hơn những trang chiến sử của Thành-Cát-Tư-Hãn”.


Nhưng không phải chỉ vì cuộc đời ngoại hạng của vị chúa Mông Cổ ấy mà chúng tôi cho xuất bản quyển chiến sử này. Lẽ chính yếu là xưa kia dân tộc chúng ta đã từng chịu đựng đại họa Mông Cổ, đã từng tạo một cuộc chiến tranh gay go, khốc liệt để đập tan tham vọng đế quốc của họ, thì ngày nay khi lần dở những trang sử đậm màu son ấy, tưởng chúng ta cần phải biết rõ lực lượng của kẻ xâm lăng hùng mạnh đến mức nào? Dù rằng đến thời HỐT-TẤT-LIỆT, cách tổ chức quân đội và khí thế của Mông Cổ đã sút kém hơn thời Thành-Cát-Tư-Hãn. Biết rõ sức hùng mạnh và tàn bạo của một đế quốc rộng lớn nhất cổ kim, chúng ta mới càng khâm phục tiền nhân hơn và càng hãnh diện về lời nói của một nhà văn Ý hiện đại khi nhận xét về lịch sử đấu tranh của dân ta:
“Dân tộc Việt Nam là dân tộc duy nhất trên thế giới đã chiến thắng quân Mông Cổ”.

Tống Thái Tổ

Tống Thái Tổ (21/3/927 - 14/11/976) tên thật là Triệu Khuông Dận (趙匡胤) hoặc Triệu Khuông Dẫn, tự Nguyên Lãng (元朗), là Hoàng đế khai quốc của triều đại nhà Tống (宋朝) trong lịch sử Trung Quốc, ở ngôi từ năm 960 đến năm 976, miếu hiệu Thái Tổ (太祖), tên thụy là Đại Hiếu (大孝). Tiểu sử của ông được ghi tại Tống sử, quyển 1-3 "Thái Tổ bản kỷ". Năm 960 vạch ra kế hoạch Binh biến Trần Kiều đoạt được chính quyền nhà Hậu Chu, lấy đất Tống Châu nơi Triệu Khuông Dẫn được phong làm Quy Đức quân Tiết độ sứ để làm quốc hiệu, lập nên Vương triều Tống.

Tiểu sử

Triệu Khuông Dận xuất thân từ một gia đình dòng dõi quan lại. Ông tổ Triệu Thiệu làm Huyện lệnh đời Đường; ông cố Triệu Đình Lịch làm quan phiên trấn, thăng dần đến Ngự sử Trung thừa: ông nội Triệu Kính lần lượt làm Thứ sử Doanh Châu, Tô ChâuTrác Châu. Cha Triệu Khuông Dận là Triệu Hoằng Ân, một quan võ có tài cưỡi ngựa bắn cung, làm Chỉ huy sứ Đệ nhất quân thiết kỵ của nhà Hậu Chu, sau làm Hữu Sương Đô Chỉ huy sứ, lĩnh chức Phòng ngự sứ Nhạc Châu, theo Chu Thế Tông đánh Hoài, có công lần lượt lại được phong Kiểm hiệu Tư đồ, tước Thiên Thủy Huyện Nam.

Cha con Triệu Khuông Dận đều là quan Cấm binh đời Hậu Chu, vinh quang một thời. Triệu Khuông Dận không những có tài võ nghệ siêu quần mà còn rất hiếu học, hiểu được đường lối trị quốc bình thiên hạ. Bất kể trên lưng ngựa hay ở nhà, lúc nào trên tay ông cũng có một quyển sách, không bao giờ ngưng học tập. Từ trong sách vở ông đã tăng thêm nhiều kiến thức, lĩnh hội được vô số tinh hoa, thu lượm được nhiều điều bổ ích.

Thống nhất đất nước

Thu phục các đối thủ

Sau khi lên ngôi được 4 năm (964), Triệu Khuông Dận bắt đầu cuộc chiến tranh thống nhất đất nước. Lúc Tống Thái Tổ mới lên ngôi, nhà Tống có 118 châu, mười mấy tiết độ sứ: Thành Đức, Bảo Nghĩa, Nghĩa Vũ, Kiến Hùng, Chương Tín, Trấn Ninh, Sơn Nam Tây đạo, Trường Xuân, Thiên Bình, Quy Đức, Thiên Hùng, Tuyên Vũ, Vũ Ninh, Định Quốc, Bảo Đại, An Quốc. Dân số 96 vạn hộ, các nước khác là 254 vạn hộ. Đứng trước đặc điểm Bắc mạnh Nam yếu, để tránh cuộc đọ sức trực tiếp với nước Liêu, ông đã thay đổi phương châm dụng binh của Chu Thế Tông, đề ra chiến lựoc thống nhất "trước Nam sau Bắc" (tiên Nam hậu Bắc), ông đã dùng thời gian 13 năm, thống nhất tất cả các khu vực phía nam, chỉ còn lại Bắc Hán. Về cơ bản, ông đã khôi phục được bản đồ hoàn chỉnh. Kết thúc cuộc chiến tranh loạn lạc xâu xé nhau, thống nhất phần lớn Trung Quốc, đó là công lao lớn nhất của cả đời Triệu Khuông Dận.

Triệu Khuông Dận thống nhất đất nước, một mặt dựa vào vũ lực, một mặt cũng dựa vào chiến tranh tâm lý. Việc thay đổi triều đại trong lịch sử đều ngập tràn xương máu và lòng hận thù tàn khốc, Triệu Khuông Dận đã đi theo con đường khác, Đối với các quốc vương đã mất đi quyền lực, ông tiếp đãi bằng lễ, gửi đến sự chân thành, làm cho thế lực phản đối thuận theo mình. Cung Đế Sài Tông Huấn bị phế, Triệu Khuông Dẫn đối đãi rất tốt. Khi Tông Huấn bị bệnh chết, đích thân Triệu Khuông Dận phát tang và để tang. Khi Hậu Chủ Lý Dục nhà Nam Đường đầu hàng vào năm Khai Bảo thứ 8 (975), Triệu Khuông Dận "ngự trên cửa Minh Đức thấy Lý Dục ở dưới lầu, đã không bắt làm lễ nghi như tù binh", lại còn "phong cho Lý Dục làm Vi Mệnh Hầu và ban chức tước cho con em và các thân cận của họ Lý". Sau khi Vua Hậu Thục là Mạnh Sưởng đầu hàng vào tháng 1 năm Càn Đức thứ 2 (965), Triệu Khuông Dận "ngự tại điện Sùng Nguyên đón tiếp với lễ nghi đầy đủ" và ban thưởng rất nhiều. Vua Ngô Việt Tiền Lưu tỏ ý quy phục, được phong ngay làm Binh mã Đại nguyên soái. Đích thân Triệu Khuông Dận đi kiểm tra công việc chuẩn bị và tiếp đón Tiền Lưu nhập cung, rồi đích thân tiếp kiến, cho phép Tiền Lưu đeo kiếm vào điện, dâng thư, ban chiếu không nhắc đến tên thường. Vua Nam Hán Lưu Sưởng bị bắt vào kinh, Triệu Khuông Dận tha tội không hỏi, lại phong tước Ân Xá Hầu. Triệu Khuông Dẫn đã ưu đãi mấy ông vua mất nước này, không những đã an ủi một số lớn những nhân sĩ đã trung hiếu với các chính quyền vong quốc đó, lại còn nắm trong tay cả một vùng đất rộng lớn hoàn chỉnh an toàn, cái được thật là to lớn. Đó là cách làm của một người có tầm nhìn chính trị. Thu phục lòng dân

người được lòng dân sẽ được cả thiên hạ, phàm là người tranh giành đất nước thì đều biết nói như vậy, nhưng làm được thật là khó. Biết bao võ tướng buông thả quân đội, cho chém giết bừa bãi coi thường mạng người. Tống Thái Tổ cầm quân đánh trận, không hề động chạm đến dân. Sau khi làm vua, ông càng nhận thấy rõ thống nhất và yên bình mới là mục đích của chiến tranh, phản đối việc lạm sát. Mỗi một trận chiến ông đều căn dặn các chủ soái không được lấy việc giết nhiều người làm chiến công, mà lấy việc thu phục lòng dân là trên hết, ông nhắc đi nhắc lại là chiếm đất phải yên dân không được cướp bóc. Trước khi tấn công Hậu Thục, ông nói với tướng Tào Bân: "không được hại dân lành", lại hạ chiếu cho các tướng tá đánh Thục, bắt những người lấy tiền của người Thục phải trả lại ngay cho chủ. Trong trận chiến Giang Nam, lại yêu cầu Tào Bân: "không được kinh hãi thần dân, cần phải mở rộng uy tín". Ông còn nói: "khi đã vào thành, không được chém giết bừa bãi, không được hại một người nào trong nhà Lý Dục".

Phương châm yên dân của Tống Thái Tổ được các tướng lĩnh chấp hành triệt để và kiềm chế cấp dưới. Tào Bân khi vây hãm Đô thành Kim Lăng của Nam Đường, khi sắp lấy được thành thì ông đột ngột bị bệnh. Khi các tướng sĩ đến thăm, ông đã nói ra nỗi lo lắng của mình: "Bệnh của tôi không phải là thuốc men có thể trị khỏi được, chỉ cần các ông hứa chắc với tôi là khi vào thành sẽ không giết hại một ai cả thì bệnh của tôi sẽ khỏi ngay" (Tống sử, "Tào Bân truyện"). Cho đến khi các tướng đồng thanh hứa rồi thắp nhang thề, thì bệnh khỏi ngay. Tào Bân làm như thế là để chấp hành mệnh lệnh của Tống Thái Tổ. Thời Ngũ đại, nhân dân đã phải chịu bao khổ nhục tàn bạo của lính tráng, một khi gặp được tướng soái nhân nghĩa thì chào đón rất nồng nhiệt. Vì thế Tống Thái Tổ bình định nhanh chóng Nam Bắc Trường Giang, hoàn toàn không phải ngẫu nhiên. Ông khoan dung nhân nghĩ thương dân, đã hình thành một sự trái ngược tích cực với những kẻ thống trị thời kỳ sau của các chính quyền cát cứ như Tần Thủy Hoàng, Tùy Dạng Đế... Mạnh Tử nói: "người nhân nghĩa không ai đánh nổi". Tống Thái Tổ chính là một con người vô địch như vậy.

Củng cố nền thống nhất

Khống chế binh quyền

Sau khi thống nhất toàn quốc, một vấn đề khác vẫn canh cánh trong lòng của Triệu Khuông Dận là làm sao chấm dứt được những rối loạn phân chia từ thời Ngũ đại, thực hiện sự thống trị yên ổn lâu dài. Tháng 7 năm Kiến Long thứ 2 (961), Triệu Khuông Dận và Triệu Phổ có một cuộc bàn luận rất quan trọng, biểu thị một cách rõ ràng luồng tư tưởng tăng cường tập quyền trung ương. Triệu Khuông Dận hỏi Phổ: "Từ cuối Đường cho đến nay, thay đổi tám họ vua, chiến tranh triền miên, dân sinh khổ cực, nguyên nhân la ở đâu? Nay ta muốn yên thiên hạ, nước nhà trường tồn, thì phải làm thế nào? ". Triệu Phổ trả lời: "Bệ hạ nói đến điều này, là phúc cho thiên hạ lắm, và cũng không khó khăn gì, chỉ tại vua thì yếu mà bề tôi thì mạnh mà sinh ra. Nay muốn trị yên, thì phải đoạt lại quyền của họ, khống chế tiền bạc lương thảo của họ, thu hồi tinh binh của họ, thì thiên hạ sẽ yên." Triệu Phổ đã chỉ ra hai điều cốt yếu: một là quyền lực của quân nhân lớn quá mà thao túng vận mệnh đất nước. Cương lĩnh chấp chính của Triệu Khuông Dận đã lấy tư tưởng này làm cơ sở.

Trong một bữa tiệc, Tống Thái Tổ khuyên các tướng lĩnh hãy giữ mãi sự giàu sang, mượn thú vui thanh sắc, thú chơi ngựa hay chó quý để hưởng thụ cuộc đời. Các tướng thống lĩnh Cấm quân là Thạch Thủ Tín, Vương Thẩm Kỳ và một số người sợ uy lực, đã giao quyền một cách hòa bình, sử sách đã gọi đó là chung rượu giả binh quyền. Tiếp đó, Mộ Dung Diên Chiêu, Hàn Lệnh Khôn bị đoạt chức Cấm quân, một người được điều đi làm Tiết độ sứ Sơn Nam, một người tới Thành Đức. Để tập trung binh quyền, Triệu Khuông Dận còn quy định chính Hoàng đế trao quyền quân quản Cấm quân, và có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Như vậy, "tướng không được chuyên quyền nắm binh của mình", "lính không có vị tướng lâu dài, tướng không có đạo quân lâu dài", đã loại trừ được khả năng phát động chính biến. Điện tiền Đô Chỉ huy, Bộ quân Đô Chỉ huy, Mã quân Đô Chỉ huy là ba chỉ huy Cấm quân, kìm giữ lẫn nhau, chỉ có quyền giữ quân mà không được quyền phát binh. Ngược lại, Viện Khu mật trên danh nghĩa là có quyền điều động quân đội, nhưng lại không có quyền nắm quyền. Chia quyền năm quân và phát binh, thực chất là tập trung toàn bộ quyền lực vào tay Hoàng đế. Ngoài Cấm quân còn có ba loại quân là Sương binh, Hương binhPhiên binh, đều là quân địa phương và thực lực có hạn. Các tướng trấn giữ biên cương dẫu có muốn làm phản cũng không được. Triệu Khuông Dận từ việc nắm binh quyền, khống chế Cấm quân để bài trừ tận gốc sự cát cứ, phân chia, là điều mấu chốt cho việc củng cố nền thống nhất, ổn định tình hình chính trị.

Cải cách chế độ quan lại

Cơ quan trung ương vẫn có Tể tướng, sử dụng danh hiệu Bình chương sự, nhưng bổ sung thêm Tham tri chính sự làm Phó tể tướng, mục đích là để phân chia quyền lực của Tể tướng. Đồng thời quy định mọi việc quân sự, hành chính, điều động Cấm binh do Khu mật sứ nắm giữ, nhằm đối lập với Tể tướng. Chính quyền và quân quyền trực tiếp theo lệnh Hoàng đế. Quyền tài chính do Tam ti sứ điều hành, phụ trách chi tài chính toàn quốc, gọi là "Kế tướng", quyền lực không thua gì Tể tướng và Khu mật sứ, phòng ngừa một mình Tể tướng nắm giữ quyền lực quá lớn. Còn lập ra các chức vụ Khu mật Phó sứ, Tam ti Phó sứ, càng thuận lợi cho việc chỉ huy của Hoàng đế.

Với chính quyền địa phương cũng áp dụng hàng loạt biện pháp. Từ cuối nhà Đường tới thời Ngũ đại, Tiết độ sứ cát cứ một phương hoặc kiêm một số quận, gọi là "chi quận". Trong quá trình thống nhất đất nước, Triệu Khuông Dận xóa bỏ chi quận, thay đổi do trung ương trực tiếp quản lý. Tiết độ sứ đời Tống chỉ là một chức vụ không có quyền hành, để ban cho những tông thất hoặc bên ngoại, những công thần bãi chính về quê hoặc vinh hàm dành cho Tể tướng. Hành chính địa phương của nhà Tống chia ra làm hai cấp là châuhuyện, lại lập ra Thông phán do trung ương trực tiếp cắt cử.

Họ cùng cai trị với Tri châu, Tri huyện và giám sát hành động của Tri châu, khống chế lẫn nhau, không ai có thể chuyên quyền.

Từ đời Đường trở đi, phiên trấn như một cái đuôi lớn không chịu vẫy theo cái đầu (thế lực mạnh không theo chỉ huy của trung ương), có quyền lớn về tài chính. Năm Càn Đức thứ 3 (965), Triệu Khuông Dận lại hạ lệnh "các châu, ngoài việc chi phí, phàm là vàng bạc, vải vóc để phục vụ quân đội, đều nộp về Kinh đô, không được chiếm giữ" (Tục tư trị thông giám trường biên, quyển 2). Triệu Khuông Dận lại thu quyền tài chính của địa phương, các quan lại phiên trấn vì không có lương thảo cho quân đội, trong kho không có vàng bạc nên không thể làm phản.

Qua đời

Sử sách chép lại rằng tháng 11 năm 976, Tống Thái Tổ qua đời, thọ 50 tuổi. Vì con ông còn nhỏ nên em ông là Triệu Quang Nghĩa lên thay, tức là Tống Thái Tông.

Một số nhà nghiên cứu tỏ ra nghi ngờ về cái chết của Tống Thái Tổ và cho rằng ông bị chính người em Quang Nghĩa hãm hại để giành ngôi báu khi ông ốm trên giường bệnh. Về sau, Tống Thái Tông truyền ngôi cho con cháu mình, không trả lại ngôi cho con của Thái Tổ. Bản thân con Thái Tổ sau đó cũng bị chết một cách không rõ ràng.

Hán Cao Tổ: Lưu Bang

Lưu Bang là nhà vua dựng nước của Triều đại Tây Hán <206>. Cũng là một trong hai nhà vua có thân thế hèn mạt trong lịch sử Trung Quốc.

Lưu Bang xuất thân trong một gia đình nhà nông, từng làm tiểu sử trong thời nhà Tần. Ông đã sống ẩn dật ở vùng núi do phóng thích người tù. Năm 209 trước công nguyên, Lưu Bang cùng với Trần Thắng, Ngô Quảng đã dựng cờ khởi nghĩa ở quê. Sau đó Lưu Bang dẫn đại quân tiến đánh Hàm Dương, đô thành của Nhà Tần, kết thúc ách thống trị Nhà Tần. Ông bãi bỏ các thiết chế nhà Tần, và ban hành sắc lệnh nghiêm ngặt “kẻ giết người cũng sẽ chết, gây thương tích cho người khác và trộm cắp phải đền tội”. Bởi vậy được nhân dân hoan nghênh rộng khắp.

Sau đó Lưu Bang đã phải dẫn quân đánh nhau với Hạng Vũ, một đạo quân chống nhà Tần, đó chính là cuộc chiến tranh Sở-Hán. Năm 202 trước công nguyên, Lưu Bang dẫn đại quân gồm 30 vạn người bao vây Hạng Vũ, khiến Hạng Vũ phải tự vẫn, Lưu Bang đại thắng và xứng đế tại Sơn Đông năm 202 trước công nguyên, quốc hiệu là Hán.

Lưu Bang rất giỏi về dùng người, thường biến nguy hiểm thành may trong những giờ phút then chốt. Khi đến Hán Trung, trong quân Lưu Bang không ngừng có người đào ngũ, có một vị tướng nhỏ tên là Hàn Tín cũng bỏ trốn. Tiêu Hà sau khi biết việc này nhưng chưa kịp báo cáo với Lưu Bang, đích thân đi đuổi và sau khi tìm được Hàn Tín đã dốc sức tiến cử với Lưu Bang. Lúc đó Hàn Tín chỉ là một tướng nhỏ không ai biết đến, nhưng Lưu Bang nghe lời tiến cử của Tiêu Hà, đã bổ nhiệm Hàn Tín làm đại tướng. Sau này Hàn Tín đã đóng góp công lao to lớn trong việc thống nhất thiên hạ của Lưu Bang.

Trong cuộc chinh chiến của Lưu Bang, trận Tiệc Hồng Môn là nguy hiểm nhất. Lúc đó đại quân của Hạng Vũ mạnh hơn Lưu Bang, và muốn tiêu diệt Lưu Bang để xưng đế. Sau khi biết tin này, Lưu Bang cùng với mưu sĩ của mình là Trương Lương đích thân tới Hồng Môn, nơi đóng quân của Hạng Vũ để tạ tội. Mưu sĩ của Hạng Vũ là Phạm Tăng kiến nghị Hạng Vũ nhân cơ hội này giết Lưu Bang. Trong bữa tiệc, đại tướng của Hạng Vũ tên là Hạng Trang mượn danh nghĩa múa kiếm góp vui để giết Lưu Bang. Trương Lương nhận ra tình hình nguy ngập bèn gọi vệ sĩ của Lưu Bang là Phạn Hội bảo vệ Lưu Bang. Một lúc sau, Lưu Bang giả vờ đi giải rổi chuồn mất dưới sự hộ tống của Phạn Hội. Sau đó Trường Lương cũng cáo từ với Hạng Vũ, dâng hiến lễ vật và nói Lưu Bang đã về rồi. Đây chính là điển tích Tiệc Hồng Môn nổi tiếng trong lịch sử. Sau khi Lưu Bang trốn thoát đã tập trung lực lượng tiến đánh Hạng Vũ và cuối cùng thành lập Triều đại Tây Hán.

Sau khi Lưu Bang đăng quang đã áp dụng một loạt biện pháp khôi phục và phát triển sản xuất. Nhiều năm chiến tranh loạn lạc khiến cho dân số giảm mạnh, Lưu Bang đã ân xá cho tội phạm trong toàn cõi, phóng thích nô lệ, cho binh sĩ về nhà. Sau đó lại giảm miễn nô dịch, tiếp tục thi hành chế độ thưởng ruộng đất cho những người có công như thời nhà Tần. Ông còn giảm bớt các vương hầu khác dòng họ để tăng cường chế độ tập quyền trung ương thống nhất, phong vương hầu cho 9 người cùng họ và di dời hơn 100 nghìn người thuộc các qúi tộc hào kiệt của 6 nước quan đông tới định cư tại vùng Quan trung.

Sau khi nhà Tần diệt vong, Hung nô-một chính quyền dân tộc thiểu số ở vùng miền bắc Trung Quốc đã thừa cơ tiến đánh xuống phía nam. Thời kỳ đầu nhà Hán, Hung nô không ngừng quấy nhiễu ở các quận biên cương. Năm 200 trước công nguyên, Lưu Bang đích thân dẫn quân chinh chiến, và bị 30 vạn quân Hung nô bao vây trong 7 ngày đêm tại Bạch Đăng, tức Đại Đồng Sơn Tây ngày nay. Sau khi thoát nạn, Lưu Bang buộc phải cầu hoà với Hung nô, mở các cửa quan giữa Hán với Hung nô nhằm xoa dịu mối quan hệ song phương.

Lưu Bang thời trẻ rất lêu lổng, coi thường các nho sinh. Sau khi xưng đế, ông cho rằng chỉ có mình là thống trị được thiên hạ, còn thơ với sách chẳng có tác dụng gì. Sau dưới sự khuyên bảo của Đại thần Lục Giả, Lưu Bang liền ra lệnh cho Lục Giả viết sách về nguyên nhân nhà Tần mất thiên hạ để tham khảo. Năm thứ 12 Cao Tổ, Lưu Bang bị tên bắn trúng trong khi dẹp loạn Anh Bố, sau mắc bệnh nặng và chết.