5 vị vua truyền thuyết trong lịch sử Trung Quốc

rong truyền thuyết Trung Quốc xưa có 5 ông vua lý tưởng. Đó là Viêm Đế, Hoàng Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn và Hạ Vũ. Có thuyết nói Viêm Đế tức Thần Nông, người phát minh ra cái cày và dạy dân làm ruộng. Hoàng Đế họ Cơ, hiệu là Hiên Viên, phát minh ra binh khí bằng đá cứng, thuyền xe, cung tên và nhuộm 5 màu, chữ viết, lịch can chi, nhạc khí. Vợ ông là Luy Tổ phát minh ra nuôi tằm. Về sau Hoàng Đế được coi là thủy tổ của tộc Hoa. Viêm Đế và Hoàng Đế là thủ lĩnh của ác bộ lạc cư trú ở Hoàng Hà, miền đất trù phú được coi là nơi khai sinh nền văn minh Trung Hoa.

Hoàng Đế có họ là Công Tôn, cũng có thuyết nói ông họ Cơ, tên là Hiên Viên. Chuyên Húc là cháu của Hoàng Đế, dựng nước ở vùng Cao Dương (tỉnh Hồ Bắc ngày nay). Đế Khốc tên là Tuấn, phò tá Chuyên Húc từ năm 15 tuổi, 30 tuổi nối ngôi, ở ngôi 70 năm, tới năm 105 tuổi mới qua đời. Con trai ông là Chí nối ngôi nhưng hoang dâm vô độ, nên chín năm sau bị phế truất. Nghiêu lên nối ngôi. Vua Nghiêu họ Y Kỳ, tên là Phóng Huân, hiệu Đào Đường Thị, gọi tắt là Đường Nghiêu. Sách cổ nói ông giỏi trị thiên hạ, đặt ra lịch một năm có 366 ngày, chia thành 4 mùa. Vua Nghiêu chết năm 86 tuổi, ông nhường ngôi cho con rể là Nghiêu Thuấn. Thuấn cũng có nhiều công trong việc phát triển kinh tế, săn bắt, nông nghiệp.

Vua Nghiêu

Nghiêu (tiếng Trung Quốc:, giản thể:) (2337 - 2258 TCN) là một vị vua huyền thoại ở Trung Quốc, một trong Tam Hoàng Ngũ Đế. cũng được gọi là Giao Đường Thị, ông sinh tại Nhân Phóng Huân hay Nhân Kỳ là con trai thứ hai của Khốc Đế và Khánh Đô. Ông cũng được gọi là Đường Nghiêu .

Thường được ca tụng là một vị vua tài giỏi và đạo đức, lòng nhân từ và sự cần cù của vua Nghiêu được coi là kiểu mẫu cho mọi vị vua và hoàng đế Trung Hoa khác. Buổi ban đầu lịch sử Trung Hoa, ba gương mặt, Nghiêu, Thuấn và Vũ rất thường được đề cập tới, và những nhà sử học thời sau tin rằng có thể họ đại diện cho những lãnh tụ của các bộ tộc liên minh đã thành lập nên một hệ thống trật tự chính phủ thống nhất trong một giai đoạn chuyển tiếp sang một xã hội phong kiến gia trưởng.

Theo truyền thuyết, Nghiêu lên ngôi vua khi mới 20 tuổi, chết khi 119 và ông truyền ngôi cho vua Thuấn, người được ông gả cho hai cô con gái từ trước. Trong nhiều cống hiến của mình, vua Nghiêu được cho là đã phát minh ra cờ vây.

Truyền thuyết "Sào Phủ Hứa Do" là một chuyện đời vua Nghiêu. Nhân vật Bành Tổ cũng được cho là một nhân vật của thời vua Nghiêu.

Trong văn học Việt Nam, thời Nghiêu, Thuấn được dùng làm điển cố miêu tả thời thái bình, (ngoài) đường không lượm của rơi, (trong) nhà khỏi lo đóng cửa.

Điển cố này ảnh hưởng trong văn học cũng như các khía cạnh khác của đời sống người Việt Nam, kể cả tôn giáo. Bài "Cư Trần Lạc Đạo Phú" của vua Trần Nhân Tông (tức sơ tổ Phật Giáo Trúc Lâm) có câu:

Đức Bụt từ bi, mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận;
Ơn Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đã tha.
Các vua Việt Nam cũng dùng Nghiêu Thuấn là mẫu mực cho việc cai trị. Bên trong điện Thái Hòa (thành nội Huế), ngay trên ngai vua có bài thơ:

Văn hiến ngàn năm dựng
Núi sông vạn dặm xa
Hồng Bàng thưở lập quốc
Nghiêu Thuấn vững sơn hà.


Vua Thuấn

Thuấn là một vị vua huyền thoại thời Trung Quốc cổ đại, nằm trong Tam Hoàng Ngũ Đế. Tên khi sinh Diêu Trọng Hoá . Ông cũng được gọi là Hữu Ngu Thị . Ông được Vua Nghiêu đưa lên ngôi khi 53 tuổi và chết khi 100 tuổi, sau khi trao lại ngôi báu cho Hạ Vũ. Ông đặt thủ đô vương quốc tại Bồ Phản , Sơn Tây hiện nay).

Ông cũng được gọi là Đại Thuấn hay Ngu Thuấn .

Vua Thuấn trong văn học Việt Nam
Trong văn học Việt Nam, thời Nghiêu, Thuấn được dùng làm điển cố miêu tả thời thái bình, (ngoài) đường không lượm của rơi, (trong) nhà khỏi lo đóng cửa.

Trong vở kịch thơ "Kiều Loan", Hoàng Cầm dùng hai chữ "Nghiêu Thuấn" để chỉ cách cai trị nhân từ và công bằng. Khi quan Thị lang muốn trừng trị một người dân vì có nói lời chỉ trích triều đình, viên quan Tham tri can:

Xin đại nhân chớ vội vàng lên án
Cửa miệng dân gian không thiếu những điều
Ca tụng Tây Sơn, oán trách đương triều
Dân oán hận phải tìm ra gốc ngọn
Đây là Kiệt Trụ hay đây là Nghiêu Thuấn?
Chúa thượng nhân từ sao oán hận không nguôi?
Điển cố này cũng ảnh hưởng khía cạnh khác của đời sống người Việt Nam, kể cả tôn giáo. Bài Kệ U Minh Chung của đạo Cao Đài có câu:

Nam mẫu Đông giao cu triêm Nghiêu Thuấn chi nhựt.
Dịch nghĩa: Đất đai trong nước đều thấm nhuần thời thái bình an lạc.

Một điển cố khác liên quan đến vua Thuấn là sông Tương.

Theo truyền thuyết, vua Thuấn đi tuần thú đất Thương Ngô ở miền sông Tương không may bị bịnh chết. Hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh (con vua Nghiêu) đi tìm vua đến bên sông Tương, ngồi bên bờ sông khóc lóc thảm thiết rồi trầm mình tự tử. Do đó, giọt Tương hay mạch Tương thành điển cố chỉ giọt nước mắt, nhất là nếu khóc vì tình.

Trong truyện Kiều có câu:

Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương
(Kiều khóc)

Điển cố này cũng dùng cho phái nam, như trong câu sau, cũng trích truyện Kiều:

Giọt châu lã chã khôn cầm
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương!
(Thúc Sinh khóc)

Từ biểu tượng "khóc vì tình", điển này có khi nới rộng ra để nói về việc buồn (dù có thể không khóc) vì tình, như câu sau trong Bích câu kỳ ngộ:

Ỏi tai những tiếng đoạn trường
Lửa tình dễ nguội sóng Tương khôn hàn
(Tú Uyên tương tư)

Một vị vua trong Ngũ Đế thời thượng cổ họ Diêu tên là Thuấn, một trang hiếu tử. Sau được vua Nghiêu, hiệu là Đào Đường gả hai người con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh, rồi lại truyền ngôi báu cho. Vua Thuấn lên ngôi đặt niên hiệu là Đường Ngu.

Nguyên cha của Thuấn là người hung bạo, không biện biệt được người hay kẻ dỡ, người đương thời đặt tên là Cổ Tẩu (người mù mắt). Mẹ của Thuấn mất sớm, Cổ Tẫu tục huyền với người đàn bà sau này sinh ra Tượng. Vì có lời gièm pha của người kế mẫu và đứa em ngỗ nghịch cùng cha khác mẹ, Cỗ Tẫu không ưa Thuấn và định bụng giết đi. Biết thế, nhưng Thuấn vẫn trọn gìn chữ hiếu đối với cha và người dì ghẻ ác nghiệt, hòa thuận với đứa em độc ác, không một lời than oán. Khi cha bắt đi cày ở đất Lịch Sơn cốt tìm cách trừ đi, vì nơi đây có tiếng là nhiều thú dữ hay ăn thịt người. Nhưng tấm lòng hiếu thảo và hòa mục của Thuấn động đến lòng trời, cả đàn voi ra giúp Thuấn cày đất và muông chim vô số đáp xuống nhặt cỏ hộ. Thấy không hại được Thuấn Cổ Tẫu và người dì ghẻsai Thuấn đánh cá ở Hồ Lôi Trạch, nơi có nhiều sóng to gió lớn, nhưng khi Thuấn đến thì sóng lặng gió yên.

Đến khi được vua Đường Nghiêu truyền ngôi, suốt 18 năm trị vì, Đế Thuấn chỉ ngồi gảy đàn hát khúc Nam Phong mà trị bình thiên hạ, nhà nhà đều lạc nghiệp âu ca.

Nguyên Bản:
Đội đội canh điền tượng,
Phân Phân vân thảo cầm,
Phụ Nghiêu đăng báo vị,
Hiếu cảm động thiên tâm



Có nghĩa là
Hàng đàn voi về cày ruộng,
Hàng bầy chim đến nhặt cỏ,
Giúp vua Nghiêu lên ngôi báu,
Hiếu thảo động lòng trời.


Diễn Quốc Âm:
Đức Đại Thánh họ Ngu, vua Thuấn,
Buổi tiềm long gặp vận hàn vi,
Tuổi xanh khuất bóng từ vi
Cha là Cổ Tẫu người thì ương ương,
Mẹ ghẻ tính càng khe khắt,
Em Tượng thêm rất mực điêu ngoa,
Một mình thuận cả vừa ba,
Trên chiều cha mẹ dưới hòa cùng em.
Trăm cay đắng một niềm ngon ngọt,
Dẫu tử sinh không chút biến dời,
Xót tình khóc tối kêu mai
Xui lòng ghen chét hóa vui dần dần,
Trời cao thẳm mấy lần cũng đến
Vật vô tri cũng mến lọ người.
Mấy phen non lịch pha phôi,
Cỏ chim vì nhặt, ruộng voi vì cày.
Tiếng hiếu hữu xa bay bệ thánh,
Mệnh trương dung trao chánh nhường ngôi
Cầm thi xiêm áo thảnh thơi,
Một nhà đầm ấm, muôn đời ngợi khen.


Nhà Hạ

Nhà Hạ (Hán tự: 夏, bính âm: xia) là một triều đại Trung Quốc. Sử học Trung Quốc coi đây là triều đại đầu tiên của Trung Quốc, sau thời Tam hoàng Ngũ đế và trước thời nhà Thương, kéo dài từ năm -2205 đến -1767, bắt đầu từ vua Hạ Vũ và kết thúc ở vua Kiệt. Tuy nhiên, người ta có quyền đặt nghi vấn đối với triều đại này vì trên thực tế, những văn thư đầu tiên của Trung Quốc được viết ra sau triều đại này cả hơn một nghìn năm.

Những cuộc khai quật gần đây tại các di chỉ thời đại đồ đồng sớm tại Nhị Lí Đầu tại tỉnh Hà Nam, cũng khó tách biệt truyền thuyết ra khỏi thực tế đối với sự tồn tại của triều đại này. Hầu hết các nhà khảo cổ học Trung Quốc cho rằng văn hoá Nhị Lí Đầu là nơi phát tích của nhà Hạ, tuy vậy các nhà khảo cổ học phương Tây vẫn không đồng ý về mối liên hệ giữa nhà Hạ và văn hoá Nhị Lí Đầu.

Truyền thuyết nói rằng vua Vũ là người hiền, có công đào vét chín con sông trị thủy cho Trung Quốc trong tám năm. Trong thời gian đào vét, ông nhiều lần đi ngang qua nhà mình mà không vào, ông được vua Thuấn truyền ngôi. Khi chết, Vũ truyền ngôi cho một bầy tôi mà ông cho là hiền, tức ông Ích, nhưng Ích không nhận, nhường ngôi lại cho con ông Vũ là Khải, mà đi ở ẩn tại chân núi Kỳ Sơn. Sau 18 đời, vua cuối cùng nhà Hạ là Kiệt tàn bạo, hoang dâm, mê nàng Muội Hỷ, bị dân chúng ghét, vua Thương Thang là chư hầu dấy quân diệt nhà Hạ lập ra nhà Thương.

17 đời vua nhà Hạ là: Vũ, Khải, Thái Khang, Trọng Khang, Tương, Thiếu Khang, Trữ, Hoè, Mang, Tiết, Bất Giáng, Quynh, Cần, Khổng Giáp, Cao, Phát, Kiệt.

Vua Vũ nhà Hạ Trung Quốc, trong tiếng Trung Quốc: 禹, (2070 TCN-2061 TCN), tên khi sinh Tỉ Văn Mệnh, tiếng Trung Quốc: 姒文命, thường được gọi là Đại Vũ (大禹).

Theo truyền thuyết, vua Vũ là vị vua đầu tiên của nhà Hạ trong lịch sử Trung Quốc, được coi là người sáng lập ra triều đại này. Thỉnh thoảng cũng được coi là một trong Tam Hoàng Ngũ Đế, ông được nhớ tới nhiều nhất với tư cách là người đã có công phát triển kỹ thuật trị thuỷ chinh phục các sông ngòi Trung Quốc.

Cha Vũ, Cổn (鯀), được Vua Nghiêu (堯) sai đi trị thuỷ nhưng không thành công nên bị Vua Thuấn (舜), người kế tục Vua Nghiêu, giết. Tiếp tục công việc của cha, Vũ đã đào chín sông mới, bỏ ra mười ba năm và khoảng 20.000 nhân công để hoàn thành nhiệm vụ.

Vũ cũng là người nổi tiếng về tính kiên trì và kiên quyết. Ông được kính trọng như một vị vua hoàn hảo. Các câu chuyện về công việc trị thuỷ của ông cho rằng trong thời gian làm việc, ông đã ba lần qua nhà mà không vào; có nghĩa là ông coi vấn đề trị thuỷ quan trọng hơn việc gia đình rất nhiều.

Vua Thuấn rất ấn tượng trước những nỗ lực của Vũ và đã đưa ông lên ngôi chứ không phải con trai mình.

Theo những văn bản lịch sử, vua Vũ chết tại Núi Kuaiji (phía nam Thiệu Hưng hiện nay) trong khi đang đi săn bắn ở biên giới phía nam đế chế, và ông đã được chôn cất tại đó. Một lăng mộ đã được xây dựng để tưởng nhớ ông. Một số hoàng đế thời đế quốc sau này đã đi tới đó thực hiện các nghi lễ tưởng niệm ông, đặc biệt có cả Tần Thuỷ Hoàng. Lăng Đại Vũ , cũng đã được xây dựng trên di tích nơi các buổi lễ đó được thực hiện.

Trước thời vua Vũ, danh hiệu hoàng đế được kế tiếp cho người nào được cộng đồng coi là có đạo đức cao nhất, chứ không phải là truyền tử. Tuy nhiên, con trai vua Vũ, Khải , đã chứng minh được khả năng của mình và trở thành người thừa kế ngôi báu của cha, đánh dấu sự khởi đầu của một triều đại mới là nhà Hạ , triều đại đầu tiên của phong kiến Trung Quốc. Nó đã trở thành một hình mẫu cai trị dựa trên thừa kế ở Trung Quốc

0 nhận xét: