1. Thời kì cường thịnh của triều Minh
Khi nhà Minh mới thành lập, do hậu quả của chính sách cai trị của triều Nguyên và gần 20 năm chiến tranh, nền kinh tế Trung Quốc bị phá hoại nghiêm trọng, đời sống nhân dân rất khốn khổ.
Trước tình hình ấy, mặc dầu từ lâu không còn là đại biểu của giai cấp nông dân nữa, nhưng Minh Thái tổ ( Chu Nguyên Chương ) vẫn thông cảm được các nổi khổ của nhân dân đồng thời cũng hiểu rỏ sức mạnh của quần chúng. Vì vậy ông nói : Thiên hạ mới định, tài lực trăm họ còn khó khăn, giống như con chim mới tập bay, không thể nhổ lông nó, như cây mới trồng không thể lay gốc nó mà phải nâng niu nuôi dưỡng.. Quán triệt tư tưởng đó, Minh Thái tổ đã thi hành những chính sách sau đây:
- Trả tự do cho những người bị biến thành nô tì trong thời gian loạn lạc, đồng thời cấm cưỡng bức hoặc mua bán dân tự do làm nô tì.
- Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp như kêu gọi nhân dân khai khẩn đất hoang, cho họ có quyền sở hữu vĩnh viễn và không đánh thuế; kêu gọi dân lưu tán trở về quê quán, cấp cho họ ruộng hoang đồng thời cấp bò cày, nông cụ, thóc giống, lương thực để gíup họ vượt qua những khó khăn ban đầu. Nhà nước còn chú ý đến vấn đề thủy lợi, giảm nhẹ thuế khóa, cứu tế cho dân những nơi bị mất mùa.
- Bỏ những hình phạt tàn khốc thời Nguyên như thích chữ vào mặt, cắt mũi, chặt chân, thiến...đồng thời dùng nguyên tắc khoan hồng trong xét xử.
- Nghiêm trị bọn quan lại tham ôbằng các cực hình như chém bêu đầu, tùng xẻo, giết cả họ...Nhờ những chính sách nói trên, trong vòng 30 năm đầu đời Minh, kinh tế được khôi phục nhanh chóng và bước đầu phát triển, tình hình chính trị được ổn định, đời sống nhân dân bước đầu được cải thiện.
Song một mặt khác, Minh Thái Tổ rất quan tâm tới việc xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền, vì vậy năm 1380, ông quyết định bỏ chức thừa tướng để tập trung quyền hành vào tay hoàng đế.
Năm 1398, Minh Thái Tổ chết. Vì người con cả chết sớm nhưng cháu đích tôn ông được lên nối ngôi, nhưng người con thứ Yên vương Chu Ðệ đã từ miền bắcđem quân tấn công Kim Lăng. Cuộc nội chiến giữa hai chú cháu bùng nổ. Năm 1402, Chu Ðệ thắng và giành được ngôi hoàng đế. Ðó là Minh Thành Tổ, một ông vua nổi tiếng của triều Minh.
Trong thời kì thịnh trị của mình, Minh Thành tổ tiếp tục thi hành những chính sách thúc đẩy sản xuất nông nghiệp như tu sửa vãây dựng các công trình thủy lợi, chỉnh đốn thué khóa, cứu tế dân đói..
Ðối với bên ngoài, Minh Thành Tổ tích cực xây dựng chính sách viễn giao cận công , dĩ Di trị Di . Ông đã năm lần đem quân đi đánh người Tác Ta và người Oi Rát, hai chi nhánh của tộc Mông Cổ, mua chuộc họ và xúi giục họ đánh lẫn nhau. Ông còn hết sức lôi kéo sự thuần phục của tộc Nữ Chân. Kết quả là có lúc thủ lĩnh các tộc tộc Tác Ta, Oi Rát, Nữ Chân tạm thời quy phục, nhưng quan hệ ấy không bền chặt, trái lại sau đó đã trở thành mối đe dọa lớn đói vởiTrung Quốc trong một thời gian dài. Cũng chính để được thuận lợi hơn trong các hoạt động quân sự ở phía bắc, nên năm 1421, Minh Thành tổ dời đo lên Bắc Kinh.
Ngoài ra Minh Thành tổ còn nhiều lần cử sứ giả đến các nước Ðông Nam Á, Nam Á, Tây Á để phô trương sự giàu mạnh của Trung Quốc và loi kéo các nước ở vùng này thuần phục nhà Minh. Trong những hoạt động ngoại giao đó, rầm rộ nhất là chuyến đi biển do viên Thái giám Trịnh Hòa dẫn đẫuuống các nước ven biển phía Nam từ năm 1405 đến năm 1433.
Ðối với Ðại Việt, Minh Thành Tổ đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược vào năm 1406 và kéo dài chiến tranh cho đếnkhi ông ta chết ( 1426 ) vẫn chưa kết thúc.
Như vậy thời kì trị vì của Minh Thành Tổ là thời kì cường thịnh nhất, nhưng ngắn ngủi của triều Minh.
2. Sự suy yếu của triều Minh:
từ thập kỉ 30 của thế kỉ XV trở về sau, triều Minh bát đầu suy sụp. Lúc bấy giờ vua thường lên ngôi khi còn ít tuổi, chỉ biết ăn chơi, mọi quyền hành đều bị các quan hoạn lũng đoạn. Nhân đó, cả tập đoàn quan lại chỉ lo vơ vét đầy túi tham, giai cấp địa chủ tìm cách chiếm đoạt ruộng đất. Thêm vào đó, Trung Quốc nhiều lần bị người Mông Cổ xâm nhập, thậm chí trong cuộc tấn công năm 1449, Minh Anh Tông đã biü bắt làm tù binh. Do vậy, nhân dân hết sức đói khổ phải rời bỏ quê hương đi tha phương cầu thực. Nhiều nơi nhân dân nổi dậy khởi nghĩa.
Trước tình hình đó, đến đời Gia Tĩnh ( 1522-1566), nhà Minh phải thi hành một số chính sách xoa dịu mâu thuẩn xã hội như : giãm nhẹ tô thuế lao dịch, hạn chế sự lộng quyền của các hoạn quan và việc chiếm ruộng đất của giai cấp đi6a chủ, Nhưng những cải cách ấy chẳng bao lâu do việc tranh quyền đoạt vị trong triều dẫn đến sự rối loạn về chính trị nên không thực hiện được.
Sau mấy năm rối ren, đến thời Vạn Lịch (1573-1619), tình hình được ổn định trong vài mươi năm nhờ những cải cách về kinh tế, chính trị, quân sự. Nhưng từ giữa thời Vạn Lịch về sau, phái cải cách bị bài trừ, phái quan hoạn lại thắng thế. Ðặc biệt đến đầu thế kỷ XVII, triều đình nhà Minh bị quan hoạn Ngụy Trung Hiền lũng đoạn, thậm chí y có thể cách chức những quan đại thần không ăn cánh.
Lúc bấy giờ, những quan lại bị gạt ra khỏi triều đình lập thành một tổ chức chính trị gọi là đảng Ðông Lâm nhằm chống lại tập đoàn quan hoạn và phê phán nền thống trị đen tối đương thời.
Dựa vào quyền thế của mình, Ngụy Trung Hiền và vây cánh đã phản kích đảng Ðông Lâm, giết hại một số thủ lĩnh quan trọng của đảng nầy. Về sau, tuy Ngụy Trung Hiền bị giết chết, nhưng cuộc đấu tranh giữa tập đoàn quan hoạn và đảng Ðông Lâm vẫn tiếp diễn cho đến khi nhà Minh diệt vong.
3. Phong trào chiến tranh nông dân cuối triều Minh:
Ðến cuối triều Minh, tình hình chính trị trở nên rối ren, giai cấp địa chủ phong kiến lợi dụng tình hình đó chiếm đoạt nhiều ruộng đất, làm cho phần lớn nhân dân Trung Quốc không có ruộng.
Những nông dân còn giữ được ít ruộng đất thì phải chịu xu cao thuế nặng, nhiều người không thể nộp thuế buộc phải cầm ruộng đất, rồi bán thân mình trở thành tá điền, nô tì hoặc tha phương cầu thực.
Lúc bấy giờ nhân dân cả nước nói chung đều khốn khổ, nhưng nghiêm trọng nhất là vùng Thiểm Tây. Vì vậy, Thiểm Tây trở thành nơi bùng nổ đầu tiên của phong trào chiến tranh nông dân cuối triều Minh.
Năm 1627, nông dân Thiểm Tây nổi dậy khởi nghĩa. Ðến năm 1631, các nhóm khởi nghĩa riêng lẽ ấy tập hợp lại thành 36 doanh do các thủ lĩnh như Cao Nghênh Tường, Trương Hiếu Trung, Lí Tự Thành... cầm đầu. Số người tham gia lên đến 20 vạn, quân khởi nghĩa vượt Hoàng Hà đến hoạt động ở vùng Hà Nam, rồi từ Hà Nam nhanh chóng tiến đến Phượng Dương ( An Huy ), đốt lăng tẩm tổ tiên nhà Minh quyết lật đổ nền thống trị của triều đại này.
Năm 1638, nhà Minh huy động quân chủ lực tấn công quân nông dân, Lí Tự Thành và Trương Hiếu Trung tạm thời phải lánh đi, lực lượng hoàn toàn tan rã. Nhưng chỉ vài năm sau, Lí Tự thành đã nhanh chóng tập hợp quần chúng, xây dựng lực lượng tiếp tục đấu tranh.
Nhờ khẩu hiệu Trọng hiền sĩ , chia ruộng , miễn thuế ...nên quân khởi nghĩa càng được nhân dân hoan nghênh, lực lượng càng phát triển nhanh chóng, và từ đó liên tiếp giành được thắng lợi.
Năm 1644, Lí Tự Thành lên ngôi hoàng đế ở Tây An ( Thiểm Tây ), đặt tên nước là Ðại Thuận, lập bộ máy quan lại mới, khôi phục hệ thống tước vị quý tộc Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Tiếp đó, Lí Tự Thành tấn công và chiếm được Bắc Kinh. Vua Sùng Trinh nhà Minh phải treo cổ tự tử.
Sau khi nghe tin nhà Minh sụp đổ, Tổng binh nhà Minh là Ngô Tam Quế quyết định đầu hàng Mãn Thanh để chống lại Lí Tự Thành. Lí Tự Thành đem quân đánh Ngô Tam Quế nhưng bị liên quân Ngô Tam Quế và Mãn Thanh đánh bại, do đó phải rút khỏi Bắc Kinh. Trên đường rút lui, quân Lí Tự Thành nhiều lần bị quân Thanh truy kích, thấy không thể thoát khỏi, nên Lí Tự Thành đã thắt cổ tự tử.
Năm 1646, trong một trận chiến đấu với quân Thanh, Trương Hiến Trung bị thương rồi bị quân Thanh bắt và giết chết. Như vậy, phong trào nông dân cuối Minh đến đây về cơ bản bị thất bại.
TRIỀU MINH ( 1368 - 1644 )
Thứ Hai, 14 tháng 12, 2009 vào lúc 18:49 Nhãn: { Chu Nguyên Chương, Minh Thái Tổ, Triều Minh }
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét